321-LINH HỒN TƯỞNG/ 3
Khi ý thức
ngưng hoạt động, giống như người đang ngủ, thì tưởng thức hoạt động, sinh ra giấc
mộng (chiêm bao). Tưởng thức cũng do ý căn (bộ óc và hệ thần kinh) điều khiển.
Cho nên một
người bị bệnh tim, gan, phèo, phổi, v.v… thì bộ phận bị bệnh đó bị ngưng hoạt động,
được xem như chết, nhưng thật ra chưa chết hẳn, ý thức ngưng hoạt động, hơi thở
dừng, tim không đập, nhưng hệ thần kinh tưởng còn hoạt động, tức là tưởng thức
hoạt động như chiêm bao. Giấc chiêm bao đó gọi là “cận tử nghiệp”. Hằng ngày
trong cuộc sống họ ưa thích làm những điều ác, điều thiện, như đi chùa, đi nhà
thờ, cúng bái, tụng niệm, ngồi thiền, ước vọng được sanh lên Thiên Đàng gặp
Chúa, được vãng sanh về Cực Lạc Tây Phương gặp Đức Phật Di Đà, được thấy hào
quang ánh sáng của chư Thiên, chư Phật, chư Bồ Tát, v.v… Đó là những người theo
các tôn giáo và được những giáo pháp của các tôn giáo này ghi những ấn tượng
vào đầu óc của họ bằng những hình ảnh Chúa, Phật, ánh sáng, hào quang, hoa sen,
thì cận tử nghiệp sẽ thể hiện giấc mộng y như hình ảnh đó. Lợi dụng cận tử nghiệp,
Tịnh Độ Tông xử dụng hộ niệm để giúp người sắp chết, thực hiện giấc mộng trực
vãng Tây Phương. Tịnh Độ Tông nghĩ rằng: nghiệp cuối cùng (cận tử nghiệp) có thể
thể hiện được những ước ao và ý nguyện lúc còn sống. Đó là về phần của những
người có tôn giáo.
Còn những
người không tôn giáo, thì cận tử nghiệp thực hiện giấc mộng theo tâm ham muốn
danh, lợi, thương, yêu, mến, tiếc, giận hờn, tức tối, thù hận, căm ghét, la
hét, sợ hãi, v.v… Đó là những điều làm ác, ngược lại làm thiện thì cũng thấy cảnh
vui tươi, hoan hỷ, sung sướng v.v…
Vì huân tập
thành thói quen (nghiệp lực), lúc sắp chết, tưởng thức hoạt động từa tựa như giấc
chiêm bao. Khi chiêm bao, chỉ có sáu thức (sắc thức) ngưng hoạt động, còn toàn
bộ cơ thể đều hoạt động bình thường. Người sắp chết, cũng ở trong trường hợp
này sáu thức (sắc thức) ngưng hoạt động nhưng lại khác là do một tạng phủ nào bị
hư hoại không hoạt động được, chứ không giống như người ngủ chiêm bao. Đó là
trường hợp người sắp chết tưởng thức hoạt động, nên thấy mình xuất hồn ra khỏi
thân và thấy thân đang nằm trên giường bệnh, các y, bác sĩ đang làm hô hấp cứu
chữa.
Nhưng cũng
có người lúc lâm sàng trên giường bệnh chết, bấy giờ duyên năm uẩn chưa phân
ly, nên tưởng thức hoạt động, bịnh nhân như nằm mộng, thấy hào quang ánh sáng,
chư Thiên Thần, chư Tiên, chư Phật, chư Bồ Tát, Ngọc Hoàng, Thượng đế, quỉ sứ,
ngưu đầu, mã diện, vua Diêm La, v.v… Nhờ hô hấp, cứu chữa của y, bác sĩ, bệnh
nhân tỉnh lại, giống như một giấc mộng và kể lại cho những người thân nghe: “chắc
chắn có sự sống sau khi chết, có địa ngục hẳn hoi”.
Qua những
hình ảnh đó, con người không ngờ, đó là một hình bóng, do tâm ước muốn mà tưởng
thức thể hiện qua giấc mộng cận tử nghiệp. Nếu năm duyên ngũ uẩn phân ly tan rã
thật sự thì chẳng còn gì là của ta nữa hết, linh hồn, thần thức, Phật Tánh cũng
tiêu tan hết, chỉ còn lưu lại nghiệp thiện, nghiệp ác mà thôi và tiếp tục theo
nghiệp thiện, nghiệp ác đó, tương ưng vô minh theo hành động nhân quả của kẻ
khác tái sanh luân hồi (Vô minh sanh hành, hành sanh thức).
Từ vô minh,
chúng ta tạo nghiệp thiện nghiệp ác trong cuộc sống hằng ngày, đến khi chết rồi,
chỉ còn lại nghiệp thiện, nghiệp ác đó, rồi cũng theo vô minh, tiếp tục tái
sanh luân hồi kiếp khác. Cứ mãi như vậy, trôi lăn trong dòng nước nghiệp
muôn kiếp muôn đời.
Do thế, đức
Phật dạy: “con người từ nhân quả sanh ra, sống trong nhân quả và chết
trở về nhân quả”. Chúng ta biết rất rõ chẳng có thế giới siêu hình, chẳng
có đấng tạo hóa nào cả sanh chúng ta ra và cũng chẳng có ai ban phước, giáng họa
cho ta được, mà chính chúng ta biết dừng dòng nước nghiệp thì tất cả tai nạn, bệnh
tật, đau khổ và sự tái sanh luân hồi đều chấm dứt.
Trí hữu hạn
của con người không thấu suốt và không thấy rõ thế giới nhân quả, nên lầm chấp
có thế giới này, có thế giới kia, rồi sanh ra dính mắc, cái này thường hằng,
cái kia vô thường, từ đó tranh luận theo tưởng giải, kiến chấp, ngã chấp của
mình, sản xuất ra biết bao nhiêu cái sai lầm, sai lạc, tự cho cái này đúng, cái
kia sai, rồi chia phe nhóm ra bài bác, chỉ trích lẫn nhau, loanh quanh, lẩn quẩn,
suy tới nghĩ lui cũng chỉ ở trong vòng tưởng thức mà thôi, không thể nào vượt
ra khỏi sự hiểu biết hữu hạn của ý thức con người.
Đời sống của
con người, sự hiểu biết lúc bình thường là ý thức, đến khi gặp thiên tai, hỏa họa,
sấm sét, chớp giăng, lũ lụt, bão tố, tai ách, bệnh tật nan y, v.v…Trước những cảnh
quá khiếp đảm sợ hãi đó, ý thức không thể nào hiểu nổi được, nên tưởng thức bắt
đầu hoạt động, thì thế giới siêu hình hiện ra, có những vị Thần trong tâm tưởng
của họ như: Thần Mưa, Thần Sấm, Thần Sét, Thần Núi, Thần Sông, Thần Cây, Thủy
Thần, Hỏa Thần, Thổ Thần, v.v… Tất cả những vị Thần này có thể ban phước, giáng
họa cho loài người.
Với lòng
thành kính tin tưởng và lúc nào cũng tựa nương vào những đấng thần linh này,
nên có việc lớn, việc nhỏ gì cũng đều van vái, cầu khẩn, cúng bái các vị thần
linh đó. Lòng tin tưởng đó bắt đầu có hiệu nghiệm, thấy có sự linh nghiệm rõ
ràng, cho nên người ta nói rằng: gò mối mà cứ đến thắp hương cúng bái, thì gò mối
cũng linh hiển.
Cái linh hiển
đó từ nơi đâu mà có? Chưa có ai hiểu được, ngoại trừ những bậc chơn tu, thạc đức,
tu hành đúng theo đường lối của đạo Phật Thích Ca đạt đến Tứ Thiền, Tam Minh mới
biết rõ từ nơi tưởng ấm của con người nhờ sức “ám thị” tạo ra, hay nói một cách
khác sự linh hiển đó, do lòng tin tưởng của chúng ta tự động ám thị trong tâm
chứ không phải có các thần linh trong thế giới siêu hình linh hiển thật sự.
Từ sự linh
hiển đó, khiến cho người ta tin rằng, có thế giới siêu hình thật sự, có ma, có
quỉ, có linh hồn người chết thật sự. Tin tưởng vào những hình bóng như vậy, gọi
là mê tín, tin mà quên mình, dám hy sinh cho những thần linh đó, gọi là cuồng
tín. Đó là giai đoạn đa thần, do từ lòng quá sợ hãi của con người trước những
hiện tượng siêu nhiên đó nên đã sản xuất ra bằng tưởng thức, để an ủi tinh
thần lúc quá khiếp đảm sợ hãi.
Tôn giáo ra
đời cũng dựa vào lòng mê tín đó, không bỏ bớt các vị thần kia nhưng lại xây dựng
một thế giới siêu hình nhất thần, do các đấng giáo chủ có đủ quyền năng điều
khiển và sai khiến được các vị thần của dân gian đặt ra, họ có quyền năng tối
cao hơn các vị thần khác, nên con người tin theo và xin gia nhập vào tôn giáo
đó để được các vị thần trên cao hết ban phước cho mình.
Các nhà làm
tôn giáo, chỉ cần thực hiện một vài thần thông tưởng nho nhỏ, do sự tu tập thiền
định tưởng, hoặc dùng tưởng lực bùa chú, tạo ra những thần lực mà con người
bình thường không thể làm được, thì mọi người sẽ theo tôn giáo mình rất nhiều.
Ví như biến hóa, tàng hình, đi trên nước, đi trên lửa, đi trên hư không như
chim bay, biết chuyện quá khứ vị lai của người khác, trị bệnh, trừ tà, ếm quỉ,
v.v… Làm những việc như vậy sẽ có nhiều người theo tôn giáo mình rất đông.
Có một số
tôn giáo lợi dụng sự trị bệnh và cứu trợ tiền bạc, thực phẩm, gạo, sữa, đường,
thuốc thang, v.v… để lôi cuốn mọi người vào tôn giáo mình. Đó là mánh khoé của
các nhà làm tôn giáo. Cho nên Đại Thừa giáo cũng có Tứ Nhiếp Pháp để nhiếp phục
người khác vào tôn giáo mình.
Do dùng tưởng
tập luyện, nên tâm danh, lợi, sắc dục vẫn còn, vì thế, khi có chút ít thần
thông, thì lập thành một giáo phái, rồi hướng dẫn người theo giáo phái mình tu
tập. Nếu vị giáo chủ không sa ngã danh, lợi và sắc đẹp, có giới luật, có kỷ
cương hẳn hoi, có pháp hành và tu tập có kết quả, thì giáo phái đó được duy trì
lâu dài, còn ngược lại không có kỷ luật, vị giáo chủ đắm say danh lợi và sắc dục
thì thần thông tưởng biến mất, vị giáo chủ kia đi ở tù vì tội lừa đảo.
Trong đương
thời phát triển đạo giáo, thì vị giáo chủ bày ra đủ thứ mê tín, khiến con người
hao tốn tiền bạc rất nhiều, nhưng cũng có điều dạy rất tốt là dạy người làm
lành, biết thương yêu nhau, bố thí giúp nhau trong cảnh hoạn nạn, tương thân
tương trợ đoàn kết với nhau. Nhưng rất độc tài và bảo thủ tôn giáo mình nên
sách động tín đồ làm việc cực ác. Phần nhiều có chiến tranh tôn giáo trên hành
tinh này đều do tôn giáo gây ra, máu xương con người chất như núi.
Bởi vậy, tôn
giáo ra đời có lợi mà cũng có hại, lợi là dạy người làm thiện, tu thiện, biết
thương yêu nhau, đùm bọc lẫn nhau; hại là tôn giáo này tranh giành tín đồ với
tôn giáo khác, vì hệ tư tưởng khác nhau.
Nhưng xét
cho cùng, tất cả các tôn giáo khác trên thế gian này đều lấy tưởng thức tu tập,
thậm chí như: Võ công, Khí công, Khinh công, Nội công, Yoga, Dưỡng sinh đều tập
luyện bằng tưởng lực, chỉ trừ ra Phật giáo không dùng tưởng.
Phật giáo lấy
ý thức chủ động điều khiển, lấy đạo đức nhân quả làm nền tảng vào đời, nên
không làm khổ mình, khổ người, luôn sống với trí tuệ nhân quả, chuyển hóa được
quả xấu thành quả tốt, luôn tạo nhân lành bằng hành động thân, miệng, ý; tránh
tạo nhân ác, khiến đời sống mình và mọi người đều được tràn đầy hạnh phúc, an
vui, sống chan hòa với nhau.
Những giáo
lý và pháp môn đạo đức cao quý này của Phật giáo, đã bị những giáo lý tưởng giải,
kiến giải của các nhà học giả Đại Thừa triển khai ra và đã tìm mọi cách dìm mất
giáo lý của đạo Phật, nên hiện giờ con người trên hành tinh này đã đánh mất đi
nền đạo đức nhân bản – nhân quả tuyệt vời không làm khổ mình, khổ người.
Nếu các tôn
giáo cho rằng: có đời sống sau khi chết, và lấy những mẩu chuyện cận tử nghiệp
của nhà sưu tầm Raymond A-Moody cho là thật, thì chúng tôi xin nêu một ví dụ.
Ví dụ, có một bệnh nhân cần phải mổ, thì trước khi mổ phải gây mê cơ thể cho
người này. Khi bị gây mê, người này không còn biết gì hết, giống như người ngủ
say, thì lúc bấy giờ linh hồn người này đâu bị gây mê, sao linh hồn họ lại mất
tiêu, không xuất linh hồn ra ngoài thân, để xem lại thân họ đang bị mổ, như các
trường hợp trong sách này thuật lại. Trường hợp thứ hai, các nhà Thiền bảo rằng:
“thể tánh con người hằng biết, hằng nghe, hằng thấy. Vậy, sao lúc gây mê chẳng
còn nghe thấy biết gì cả?”
Phật dạy:
Người sắp chết thường thể hiện cận tử nghiệp như giấc mộng, thấy cảnh giới này,
cảnh giới khác, có người thì mê man bất tỉnh chẳng biết gì cả, đó là tùy theo
nghiệp (thói quen do lòng ham muốn), tiếp tục tái sanh, luân hồi theo nghiệp lực
dục tương ưng với đối tượng nghiệp lực dục đó, ngay liền sau khi thân này không
còn phục hồi lại được nữa. Do đó sự sống sau khi chết không có, chỉ có cuộc sống
hiện hữu đang tiếp diễn trong luật vô thường nhân quả, từ thân này đến thân
khác liên tục mãi, tiếp nối nhau mãi không bao giờ có kẽ hở, như ngọn đuốc này
tắt, tiếp nối ngọn đuốc khác.
Đó là đạo luật
nhân quả bất di bất dịch, muôn đời muôn kiếp của loài người không có ai thay đổi
được, bởi vì con người từ nhân quả sanh ra, sống trong nhân quả và chết trở về
nhân quả.