65-BÀI IN TRONG SÁCH BA
MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ ĐẠO: TÂM VÔ LẬU - MỤC ĐÍCH TU CHỨNG ĐẠO LÀ TÂM VÔ LẬU
Chúng ta hãy
lắng nghe các vị đại đệ tử của Phật, mỗi người đều có một kinh nghiệm tu tập
khác nhau, không ai tu tập giống ai, nhưng kết quả tâm đều Vô Lậu. Vô Lậu là mục
đích mà mọi người tu tập đều phải đạt được, như vậy mới gọi là giải thoát. Ông
A Nan trình bày sự tu tập của mình theo đặc tướng như sau:
“Ở đây,
này Hiền giả Sariputta, tỳ-kheo nghe nhiều, gìn giữ điều đã nghe, tích tụ điều
đã nghe. Những pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa cụ túc, nói lên
phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh, những pháp ấy được vị ấy nghe nhiều và
gìn giữ kỹ, được lập lại lớn tiếng, được ý tư duy, được tri kiến
khéo quán sát; vị ấy thuyết pháp cho bốn hội chúng với văn cú viên dung, lưu
loát, với mục đích đoạn trừ mọi tùy miên. Này Hiền giả Sariputta, hạng tỳ-kheo
này có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga”.
Ông A Nan đã
trình bày sự hiểu biết tu hành của mình bằng cách nghe nhiều, do ông làm thị giả
Phật: Khi nghe Phật thuyết giảng là ông ghi nhận trong tâm từng lời nói, từng ý
nghĩa, từng hành động tu tập từ thấp đến cao, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện.
Do sự tu tập như vậy, sẽ làm sáng chói khu rừng Gosinga. Theo trình bày của ông
A Nan, thì sự tu hành rất căn bản: NGHE, HIỂU, RỒI THỰC HÀNH. Khi ông A Nan
trình xong sự tu tập của mình, thì ông Xá Lợi Phất hỏi Tôn giả Revata:
“Này Hiền
giả Revata, Tôn giả Ananda đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây, nay
chúng tôi hỏi Tôn giả Revata: Này Hiền giả Revata, khả ái thay ngôi rừng
Gosinga… (như trên)… Này Hiền giả Revata, hạng tỳ-kheo nào làm sáng chói khu
rừng Gosinga?”.
Tôn giả
Revata trình bày chỗ tu tập của mình là GIỮ GÌN TÂM THANH TỊNH BẤT ĐỘNG trong bất
cứ giờ nào, ngày nào, chỗ nào cũng ở trong trạng thái KHÔNG TỊCH, thì sẽ làm
sáng chói khu rừng Gosinga. Đó là kinh nghiệm tu hành của
tôi, xin trình bày cho các tôn giả đang có mặt trong ngôi nhà
mát được nghe:
“Ở đây,
này Hiền giả Sariputta, tỳ-kheo ưa thích đời sống tịnh cư, vui thú đời sống tịnh
cư, nội tâm tu pháp tịnh chỉ, không gián đoạn tâm thanh tịnh (thiền định),
thành tựu quán hạnh, luôn luôn lui tới các chỗ không tịch. Này Hiền giả
Sariputta, hạng tỳ-kheo này có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga”.
Khi nghe
xong sự trình bày tu tập của Tôn giả Revata, thì Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi Tôn giả
A Na Luật, còn ông tu tập như thế nào?
“Này Hiền
giả Anuruddha, Tôn giả Revata đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây,
nay chúng tôi hỏi Tôn giả Anuruddha: Này Hiền giả Anuruddha, khả ái thay ngôi rừng
Gosinga… (như trên)… Này Hiền giả Anuruddha, hạng tỳ-kheo nào làm sáng chói
khu rừng Gosinga?”.
Tôn Giả A Na
Luật trả lời qua kinh nghiệm tu hành của mình:
“Ở đây,
này Hiền giả Sariputta, tỳ-kheo, với thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhiên, quán
sát ngàn thế giới. Này Hiền giả Sariputta, ví như một người có mắt lên trên đỉnh
một ngôi lầu tốt đẹp, quán sát một ngàn đường vòng xung quanh. Cũng vậy, này Hiền
giả Sariputta, tỳ-kheo, với thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhiên,
quán sát ngàn thế giới. Này Hiền giả Sariputta, hạng tỳ-kheo như vậy có thể làm
sáng chói khu rừng Gosinga”.
Ngài A Na Luật
trước khi gặp Phật pháp là người bị mù đôi mắt, nhưng khi gặp chánh pháp của Phật,
Ngài nỗ lực tu tập giữ tâm thanh tịnh bất động, và chứng đạt Tâm Bất Động, nên
mỗi khi muốn nhìn thấy Ngài đều dùng Thiên nhãn của mình để thấy mọi vật, chớ
không còn là đôi mắt thường của chúng ta nữa. Cho nên Ngài trình bày chỉ có người
tu tập có cái nhìn thanh tịnh, không bị nhiễm ô các dục, không bị dao động bởi
các ác pháp, cái nhìn được như vậy thì sẽ làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Khi nghe Tôn
giả A Na Luật trình bài xong, thì Tôn giả Xá Lợi Phật hỏi Tôn giả Đại Ca Diếp,
còn tôn giả tu tập như thế nào?
“Này Hiền
giả Kassapa, Tôn giả Anuruddha đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây,
nay chúng tôi hỏi Tôn giả Kassapa: Này Hiền giả Kassapa, khả ái thay ngôi rừng
Gosinga… (như trên)… Này Hiền giả Kassapa, hạng tỳ-kheo nào làm sáng chói khu
rừng Gosinga?”.
Nghe hỏi như
vậy, Tôn giả Đại Ca Diếp trình bày sự tu tập của mình:
“Ở đây,
này Hiền giả Sariputta, tỳ-kheo tự mình sống ở rừng núi và tán
thán đời sống ở rừng núi; tự mình sống khất thực và tán thán đời sống khất thực;
tự mình mặc y phấn tảo và tán thán hạnh mặc y phấn tảo; tự mình sống với ba y
và tán thán hạnh ba y; tự mình sống thiểu dục và tán thán hạnh thiểu dục; tự
mình sống biết đủ và tán thán hạnh biết đủ; tự mình sống độc cư và tán thán hạnh
sống độc cư; tự mình sống không nhiễm thế tục và tán thán hạnh không nhiễm thế
tục; tự mình tinh cần, tinh tấn và tán thán hạnh tinh cần, tinh tấn; tự mình
thành tựu giới hạnh và tán thán sự thành tựu giới hạnh; tự mình thành tựu thiền
định và tán thán sự thành tựu thiền định; tự mình thành tựu trí tuệ và tán thán
sự thành tựu trí tuệ; tự mình thành tựu giải thoát và tán thán sự thành tựu giải
thoát; tự mình thành tựu giải thoát tri kiến và tán thán sự thành tựu giải
thoát tri kiến. Này Hiền giả Sariputta, hạng tỳ-kheo như vậy có thể làm sáng
chói khu rừng Gosinga”.
Ngài Đại Ca
Diếp trình bày sự tu tập của mình qua các hạnh buông xả của một người xuất gia,
ly gia cắt ái, sống không gia đình không nhà cửa, chỉ còn ba y một bát đi xin
ăn hằng ngày, ai cho sao cũng ăn được, không chê cũng không khen.
Tự mình thích
sống trong rừng núi thanh vắng; tự mình thích sống đi khất thực; tự mình thích
mặc y áo thô xấu; tự mình thích sống ba y một bát, không thích
nhiều đồ; tự mình thích sống thiểu dục tri túc; tự mình thích sống độc cư,
không thích nói chuyện với bất một người nào; tự mình thích sống không đắm nhiễm
thế tục; tự mình thích sống siêng năng; tự mình thích sống giữ gìn giới luật
nghiêm chỉnh; tự mình thích sống tinh tấn giữ gìn tâm BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN
LẠC và VÔ SỰ; tự mình thích sống với tri kiến giải thoát. Sống như ngài Đại Ca
Diếp như vậy là đã giải thoát chứng đạo rồi, còn gì mà không làm sáng chói khu
rừng Gosinga.
Khi ngài Đại
Ca Diếp trình bày xong, thì ngài Xá Lợi Phất hỏi Tôn giả Đại Mục Kiền Liên, còn
kinh nghiệm tu hành của Ngài như thế nào?
“Hiền giả
Moggallana, Tôn giả Mahakassapa đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây,
nay chúng tôi hỏi Tôn giả Mahamoggallana: Này Hiền giả Moggallana, khả ái thay
khu rừng Gosinga!… (như trên)… Này Hiền giả Moggallana, hạng tỳ-kheo nào có
thể làm sáng chói khu rừng Gosinga?”.
Khi nghe Tôn
giả Xá Lợi Phật hỏi như vậy, thì Tôn giả Đại Mục Kiền Liên trả lời như sau:
“Ở đây,
này Hiền giả Sariputta, hai tỳ-kheo đàm luận về Abhidhamma (A-tỳ-đàm). Các vị ấy
hỏi nhau câu hỏi, và khi được hỏi, các vị trả lời được với nhau chớ không dừng
lại (không trả lời được), và cuộc đàm luận về pháp được tiếp tục.
Này Hiền giả Sariputta, hạng tỳ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng
Gosinga”.
Tôn giả Mục
Kiền Liên là người đệ nhất thần thông trong các hàng đệ tử của Phật, sao ông
không đem ra pháp tu hành nào mà có được thần thông đó? Ở đây, ông lại
đem bộ luận A Tỳ Đàm ra luận bàn, thì chúng tôi tin rằng đây không phải là ông
Mục Kiền Liên trả lời, mà là người sau thêm vào để hạ bệ các hàng đệ tử
của Phật. Luận A Tỳ Đàm là một bộ sách lý luận, chớ đâu phải là những hành động
tu tập thanh tịnh làm sáng chói khu rừng Gosinga.
Ở đây, chúng
ta không được ngài Mục Kiền Liên trình bày sự tu tập như thế nào để trở thành một
người đệ tử đệ nhất thần thông của Phật, nhưng chúng ta cũng biết, thần thông đệ
nhất đều xuất phát từ tâm BẤT ĐỘNG. Dù muốn dù không, thì ngài Mục Kiền Liên phải
sống trong tâm BẤT ĐỘNG suốt trong bảy ngày đêm thì mới gọi là đệ nhất thần
thông.
Khi Tôn giả
Đại Mục Kiền Liên trả lời xong, liền hỏi lại Tôn giả Xá Lợi Phất, còn Ngài tu
hành như thế nào?
“Hiền giả
Sariputta, chúng tôi đã trả lời theo sự giải thích của chúng tôi. Ở đây, nay
chúng tôi hỏi Tôn giả Sariputta: Này Hiền giả Sariputta, khả ái
thay khu rừng Gosinga! Đêm rằm sáng trăng, cây Ta-la trổ hoa cùng khắp, hương
trời như được tỏa rộng khắp nơi. Này Hiền giả Sariputta, hạng tỳ-kheo nào có thể
làm sáng chói khu rừng Gosinga?”.
Nghe hỏi như
vậy, tôn giả Xá Lợi Phật trình bày sự tu tập của mình để huynh đệ cùng nghe:
“Ở đây,
này Hiền giả Moggallana, tỳ-kheo điều phục được tâm, không phải tỳ-kheo không
điều phục được tâm. An trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi sáng, vị ấy an
trú quả ấy vào buổi sáng; an trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi trưa, vị ấy
an trú quả ấy vào buổi trưa; an trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi chiều, vị
ấy an trú quả ấy vào buổi chiều. Hiền giả Moggallana, ví như một vị vua hay vị
đại thần của vua, có một tủ áo đựng đầy những áo có nhiều màu sắc khác nhau. Cặp
áo nào nhà vua muốn mặc vào buổi sáng, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi sáng; cặp
áo nào nhà vua muốn mặc vào buổi trưa, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi trưa; cặp
áo nào nhà vua muốn mặc vào buổi chiều, nhà vua mặc cặp áo ấy vào buổi chiều.
Cũng vậy, này Hiền giả Moggallana, tỳ-kheo điều phục được tâm, không phải tỳ-kheo
không điều phục được tâm. An trú quả nào tỳ-kheo ấy muốn an trú vào buổi sáng,
vị ấy an trú quả ấy vào buổi sáng; an trú quả nào tỳ-kheo ấy muốn an trú vào buổi
trưa, vị ấy an trú quả ấy vào buổi trưa; an trú quả nào vị tỳ-kheo
ấy muốn an trú vào buổi chiều, vị ấy an trú quả ấy vào buổi chiều. Này Hiền giả
Moggallana, hạng tỳ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga”.
Sự trình bày
tu tập của ông Xá Lợi Phất nhiếp tâm và an trú tâm, muốn hồi nào đều làm được hồi
nấy:
1- Tỳ
kheo điều phục được tâm, không phải tỳ kheo không điều phục được tâm.
2- An trú
quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi sáng, vị ấy an trú quả ấy vào buổi sáng; an
trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi trưa, vị ấy an trú quả ấy vào buổi trưa;
an trú quả nào vị ấy muốn an trú vào buổi chiều, vị ấy an trú quả ấy vào buổi
chiều.
Khi trình
bày sự tu tập cho mọi người nghe xong, thì Tôn giả Xá Lợi Phật đề nghị các tôn
giả nên đem đến hỏi Phật qua kinh nghiệm tu hành của mình đúng, sai, để đức Phật
chỉnh sửa lại. Lời đề nghị quá hợp lý, nên mọi tôn giả đều rủ nhau đến chỗ Phật
để thưa hỏi cho cặn kẽ. Nhất là mọi vị đều thuật lại những công phu tu hành của
mình cho đức Phật nghe.
Sau khi nghe
xong các tôn giả trình bày, đức Phật chỉ trả lời ngắn gọn, mà
không phê bình một tôn giả nào tu tập sai pháp cả, có nghĩa là đức Phật chấp nhận
các tôn giả đều tu tập đúng, nhưng có điều là các ông không khéo trả lời, chỉ
thẳng tâm BẤT ĐỘNG.
Đạo Phật tu
hành rất đơn giản, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có cầu kỳ như
các tôn giả trình bày pháp tu tập.
Chúng ta hãy
lắng nghe đức Phật trả lời pháp môn tu hành một cách đơn giản:
“Này
Sariputta, tất cả đều lần lượt khéo trả lời. Và này các ông hãy nghe Ta nói, hạng
tỳ-kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga? Ở đây, này Sariputta, tỳ-kheo,
sau buổi ăn, sau khi đi khất thực về, ngồi kiết già, lưng thẳng, đặt niệm trước
mặt, và nghĩ rằng: “Ta sẽ không bỏ ngồi kiết già này, cho đến khi tâm của
ta được khéo giải thoát các lậu hoặc, không có chấp thủ”. Này
Sariputta, hạng tỳ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga”.
Lời dạy của
đức Phật tu hành rất đơn giản: “Ta sẽ không bỏ ngồi kiết già này, cho đến
khi tâm của ta được khéo giải thoát các lậu hoặc, không có chấp thủ”.
Quý vị có
nghe lời dạy này không? Tu hành chỉ cần ngồi kiết già, hay bán già, rồi khéo
tác ý để giữ tâm giải thoát các lậu hoặc, và không để tâm dính
mắc chỗ nào cả, tức là không chấp thủ. Tu tập có như vậy, mà quý vị sao bị chấp
thủ quá nhiều, nào là tâm hết vọng tưởng; nào là tâm thanh tịnh; nào là khinh
an hỷ lạc; nào là hơi thở nhẹ nhàng; nào là vui mừng hết cỡ; nào là xúc động
rơi nước mắt; nào là kiến tánh thành Phật; nào là niệm Phật nhất tâm; nào là biết
vọng liền buông; nào là tham công án, tham thoại đầu, v.v… Tất cả những tâm niệm
này là TÂM CHẤP THỦ.
Tu tập ở đây
đức Phật dạy rất đơn giản, chỉ ngồi kiết già lưng thẳng, rồi giữ tâm không lậu
hoặc và không để tâm dính mắc một cái gì khác. Xin quý vị lưu ý: GIỮ
TÂM KHÔNG LẬU HOẶC không có nghĩa là giữ tâm không vọng niệm, mà GIỮ TÂM
KHÔNG GIẬN HỜN, THƯƠNG, GHÉT, LO BUỒN, SỢ HÃI, v.v… Ở đây có nghĩa là TÂM
THANH THẢN, AN LẠC và VÔ SỰ. Đức Phật xác định pháp môn tu tập thật đơn giản,
còn các vị đệ tử trình bày pháp môn tu tập quá khó khăn và rất phức tạp.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét