03-THỈNH NGUYỆN THƯ CỦA TRƯỞNG LẢO THÍCH
THÔNG LẠC .
(đọc tại Thường Chiếu,
ngày 26 tháng 3 năm 1990)
Khi Thầy tu xong, làm chủ
được sự sống chết rồi thì Thầy trở về thăm Hòa Thượng Thanh Từ trên Thường Chiếu.
Để quý thầy hiểu rõ hơn,
Thầy đọc lại bài thỉnh nguyện viết cách đây 7 năm, đó là ngày 26 tháng 3 năm
1990. Thầy về Thường Chiếu thỉnh nguyện bài này sau khi Hòa Thượng Thanh Từ
giao khu đất ở Phước Hải cho Thầy để xây dựng tu viện Chơn Lạc nhưng không
thành.
Sau này cũng có những
duyên rất khó khăn khác khiến Trung tâm An Dưỡng Từ Thiện Chơn Lạc không ra đời
trên khu đất đó được để thực hiện hoài bảo của Thầy đem đạo đức của Phật giáo đến
với mọi con người, làm cho con người giải thoát từ bàn tay của họ, từ khối óc của
họ.
Con người làm từ thiện thì
đem lại hạnh phúc cho họ, con người làm điều ác thì mang hậu quả khổ đau cho
chính họ. Vì biết rõ đường đi nhân quả cho nên Thầy có hoài bảo đó.
Đây quý thầy nghe
bài Thỉnh Nguyện đã viết cách đây 7 năm:
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni Phật.
Kính bạch Thầy và đại
chúng, từ ngày con về Chơn Không học thiền với Thầy, con đã ngộ những gì và tu
hành như thế nào.
Kính bạch Thầy và đại
chúng, trong 3 tháng hạ năm ấy, 1970, con đã nghe Thầy giảng kinh Kim Cang đến
câu "Bồ tát độ chúng sanh trong bốn loài mà không thấy mình độ, độ hết
chúng sanh thì thành Phật".
Thầy giảng câu này cho
chúng con đó là vọng tưởng độ hết chúng sanh tức là hết vọng tưởng, hết vọng tưởng
tức là thành Phật.
Lại nữa cũng kinh đó, Thầy
giảng câu "Hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc, và quá khứ
tâm bất khả đắc", con ngộ câu này "tâm quá khứ và vị lai là vọng tưởng,
tâm hiện tại là tác ý".
Ngộ hai câu kinh này nên đặt
trọn niềm tin ở Thầy là một kỳ sư đắc đạo mới hiểu được như vậy. Quét hết vọng
tưởng dừng tác ý để thành Phật.
Bấy giờ tâm con đều buông
xuống hết, con không còn tha thiết cái ăn, cái ngủ, cái mặc. Dẹp sạch. Cả ngủ
nghỉ con cũng không còn ham thích nữa, con không còn ham học hay tìm hiểu về
kinh sách nữa.
Con từ khước dịch thuật
khi Thầy giao cho con kinh trong bộ Đại Tạng. Con từ giả tất cả những gì của thế
gian, quyết lòng thực hiện cho bằng được.
Trong chúng chỉ có 10
huynh đệ tu học, nhưng con thường tìm cách xa bạn bè, tránh nói chuyện tào lao,
nghị luận, tìm nơi vắng vẻ năng nỗ tu hành.
Con tự nghĩ người xưa chỉ
ngộ một câu, thường dẹp tất cả tìm lấy con đường giải thoát cho mình.
Như ngài Đại Mai ngộ câu
"Tức tâm tức Phật" rời Mã Tổ đến núi Đại Mai nỗ lực tu hành; Lục Tổ
Huệ Năng ngộ câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" từ giả mẹ già đến
chùa Huỳnh Mai nỗ lực thực hiện quét sạch vọng tưởng trong lao tác, chẳng học tập
gì hết; ngài Dược Sơn ngộ câu "không nhướng mày chớp mắt", 3 năm
không làm một điều gì hết, da mỏng da dày đều rớt sạch.
Bởi vậy, ngộ là để tu chứ
không phải để tìm văn trích cú, hiểu biết nhiều, kiến giải sâu. Ngộ là để thực
hiện sự làm chủ thân tâm mình ra khỏi nhà sanh tử luân hồi.
Kính bạch Thầy và đại
chúng, suốt 10 năm trong thất, con đã quét sạch vọng tưởng, dừng tác ý.
Đầu tiên con được Thầy dạy
pháp môn tri vọng, biết vọng liền buông. Nhờ pháp môn này, con đã dẹp gần hết vọng
tưởng nhưng chưa thật sạch.
Năm cuốí cùng con dùng
pháp Hơi Thở nhiếp mạnh, hoàn toàn ức chế được tâm mình, con thành tựu dừng tác
ý kéo dài thời gian này 7 ngày đêm liên tục không biết đói khát. Tiếp tục suốt
2 tháng con không còn nghe, thấy, biết gì bên ngoài, và không còn cảm giác đau
nhức nóng lạnh khó chịu, duy nhất tâm thức của con không mất, con rất tỉnh táo.
Rồi một hôm ngón chân con đụng vào bàn Phật, ý thức của con bắt đầu trở lại.
Biến cố xẩy ra trong con,
toàn thân con có sự thay đổi, con có cảm giác như toàn thân con nhẹ nhàng,
thanh thản. Các công án trong Bích Nhâm Lục con đều hiểu rõ, con biết sạch, con
thấy các Tổ tu như thế nào chứng, tu như thế nào không chứng.
Cũng như hiện giờ Thầy và
con là một hay là hai, con cũng đều biết. Con đã có trí tuệ, đã có thiền định.
Thầy hỏi con, con đều đáp đúng như ý của Thầy, không bao giờ con đáp sai ý Thầy.
Thầy lấy kinh Lăng Già ấn
chứng cho con. Sau này con có về trình Thầy 2 lần nữa, Thầy đều cho rằng tất cả
những điều con nhập định là đúng.
Kính bạch Thầy và đại
chúng, khi về trình Thầy lần đầu tiên, biết duyên mình chưa đủ với chúng sanh,
con khéo léo xin Thầy ra đi, trước là để tạo niềm tin cho chúng khi họ thấy sự
nhập định và làm chủ sự sống chết thật sự của con, để họ theo Thầy tu tập và
con sẽ ghi lại những kinh nghiệm tu tập của con để lại cho Thầy biết mà dạy
chúng tu học, nhưng Thầy yêu cầu con ở lại giúp Thầy chấn hưng Thiền Tông Lý Trần.
Do sự yêu cầu này con ở lại,
đem hết sức mình giữ gìn con đường Thiền Tông phát triển lâu dài. 10 năm làm Phật
sự đã qua, con gặp nhiều cay đắng cam go và thử thách vô vàn, con chẳng sờn
lòng, tin rằng lúc nào giữa thầy trò cũng có sự hiểu nhau như lời Thầy đã dạy
con "Chẳng sợ ngại gì, chỉ thầy trò hiểu nhau là hơn hết". Con tin ở
lời này.
Kính bạch Thầy và đại
chúng, con chẳng bao giờ tự xưng mình chứng quả Alahán, hay đắc pháp, hay nhập
Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền.
Khi gặp Thầy ở Thường Chiếu,
Thầy có giảng nói về trạng thái của Sơ thiền cho đến Tứ thiền, con đáp lại lời
Thầy, giống thì có giống, nhưng có chỗ không giống.
Nhập các thiền các định
như Tứ Không, Diệt Tận Định, chẳng có ai dạy con nhập các thiền các định này
nên chỉ dò theo trạng thái nhiếp tâm của con lúc nhập định và phỏng theo kiến
giải ý nghĩa trong kinh điển mà nói ra, chứ làm sao dám xác định con đã nhập
các thiền các định này. Đó là kiến thức chứ không phải thiền định chi cả.
Và con cũng chẳng bao giờ
tự khoe mình có thần thông phép lạ, xuất hồn, nói túc mạng, thế mà người ta đồn
đải. Sự đồn đải ấy ngày càng nhiều, nhất là từ ngày thầy Thông Huyển trú tại
Chơn Như.
Kính bạch Thầy và đại
chúng, sự hiểu biết của trí tuệ học hỏi làm sao hiểu được kinh điển, nội tâm tu
hành của kẻ khác. Thầy Thông Huyển là một người thông minh, có trí nhớ đặc biệt
và có học thức, nhưng kiến giải qua sự hiểu biết của trí thế gian thì bảo sao
không xây dựng ảo tưởng huyền thoại. Và đó cũng là sở trường của thầy Thông Huyển.
Kính bạch Thầy và đại
chúng, hôm nay nhân duyên làm Phật sự của con không đủ nên xin Thầy và đại
chúng chứng minh.
Kể từ ngày nay con sẽ
không chỉ dạy những kinh nghiệm này cho ai nữa. Nó là một thứ thiền ngoại đạo
như lời Thầy đã dạy cho đại chúng biết.
Đất nước này, thời điểm
này, Thầy là người có công chấn hưng lại Thiền tông Việt nam. Con là đệ tử của
Thầy, trợ giúp Thầy, vô tình đã làm Thầy buồn.
Vậy con xin sám hối Thầy
và đại chúng, từ nay về sau con không làm phiền lòng Thầy nữa.
Mỗi tháng con sẽ về xin thỉnh
nguyện sám hối một lần để nếu có những lổi lầm, nhờ Thầy và đại chúng chỉ dạy
cho để con được làm tròn bổn phận là người đệ tử biết ơn sâu dày.
Kính bạch Thầy và đại
chúng, ơn nghĩa Thầy khai ngộ con thấu suốt được lí giải thoát sanh tử, làm sao
con quên được lời khích lệ năm xưa còn văng vẳng bên tai "Phật pháp còn
mãi thế gian là còn người tu chứng", những lời này ghi khắc mãi trong tâm
con.
Ngày nay con đã làm chủ được
thân tâm, bản ngã đã tiêu mòn, danh lợi đã sạch, sanh tử đã tự tại là nhờ ơn đức
của Thầy.
Ơn đức này sánh dường trời
biển, hơn cả công sanh thành dưỡng dục của mẹ cha. Biết lấy chi so sánh được.
Một lần nữa, con kính xin
Thầy mở lượng từ bi lân mẫn cho con sám hối. Từ đây về sau, con sẽ làm Thầy vui
lòng để đền đáp ơn sâu dày trong muôn một.
Sau cùng con xin phép Thầy,
khi Thầy ra đi, con sẽ cùng với Thầy ra đi, nếu chẳng còn ai theo con tu học nữa.
Khi con ra đi, con không lưu lại dấu vết gì. Nếu lưu lại con tự nghĩ là một việc
làm bất nghĩa.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni Phật.
Quý thầy thấy bài thỉnh
nguyện đó đã được đọc cách nay 7 năm, do sự việc tu viện Chơn Lạc không đem đến
kết quả.
Thay vì lần đầu tiên, khi
Thầy về trình bày sự tu chứng của Thầy mà Hòa Thượng nhận điều kiện xin nhập diệt
của Thầy và trước khi nhập diệt thì Thầy cũng sẽ xin Hòa Thượng nhập định 7
ngày đêm ở tại Chơn Không để tất cả tăng ni đang theo Hòa Thượng tu hành chứng
kiến sự nhập định.
Họ sẽ thấy được sự tự tại
và cái năng lực của Định Như Ý Túc.
Và sau khi nhập định 7 ngày
đêm và Thầy sẽ xuất định và từ biệt đại chúng có đủ mặt tại đó và Thầy sẽ nhập
diệt. Thầy xin Hòa Thượng thiêu xác thân của Thầy và đem đổ xuống biển, đừng có
xây tháp gì hết, coi như hoàn toàn không có vật gì để lại, Thầy chỉ còn lưu lại
một tài liệu để theo đó Hòa Thượng hướng dẫn cho người tu: giới luật phải sống
như thế nào, tu tập thiền định phải như thế nào để nhập định làm chủ được sự sống
chết.
Đó là ý của Thầy muốn giúp
Hòa Thượng ngay từ ngày thành tựu, sau khi 10 năm trong thất.
Đối với Thầy thì danh lợi
không còn nữa mà chỉ còn có tình nghĩa thầy trò giúp nhau xây dựng lại Phật
pháp đem lại Thiền tông mà thôi, mà lấy bản thân của Thầy, lấy kinh nghiệm của
Thầy để làm gương cho mọi người sáng suốt được Phật pháp mà xây dựng.
Nhưng Hòa Thượng lại không
có ý đó mà muốn Thầy ở lại để cho có một người đệ tử chứng đạo một bên giúp đở
Hòa Thượng.
Khi Thầy từ giả Hòa Thượng
ra về, Hòa Thượng có nhắc "Trong chuyến về này, Thông Lạc hãy ghé thăm các
Chiếu". Nhưng Thầy không ghé thăm mà đi về luôn.
Khi Hòa Thượng hỏi lại các
Chiếu Thầy Thông Lạc có về thăm không thì các Chiếu nói không có, cho nên Hòa
Thượng nói bây giờ mỗi Chiếu cử một đại diện về thỉnh Thầy mới về, chứ không thể
nào mà Thầy về đâu. Do đó có một chuyến xe mỗi Chiếu có một đại diện về đây thỉnh
Thầy. Sau khi được thỉnh, Thầy mới về thăm Thường Chiếu và các Chiếu
khác.
Sau chuyến thăm đó thì
cũng có nhiều tư tưởng chống đối ganh tị, nói rõ ra người phàm phu họ chưa thấy.
Thầy đã hiểu biết tâm trạng đó cho nên đến đó Thầy chỉ ở rồi nói qua loa, không
bao giờ lộ ra một cái gì về kinh nghiệm tu hành của mình. Tại sao vậy?
Tại vì người ta không tin
mình, mà người ta có những cái ganh tị, tại sao được Hòa Thượng cho rằng Thầy
tu chứng thế này thế khác.
Do đó sau chuyến về
thăm các Chiếu, Thầy đã thấy trong tâm của mỗi huynh đệ của mình có những sự chống
đối mình chứ họ không phải là những người quyết tìm con đường giải thoát.
Khi tu xong, trước khi Thầy
về thăm, Thầy đã hiểu tâm của chúng sanh rồi, cho nên Thầy chỉ muốn làm cái gì
cho họ tin ở Hòa Thượng hơn là tin ở Thầy.
Nếu Thầy ở lại các Chiếu
giúp Hòa Thượng thì sẽ xẩy ra sự tranh chấp, họ đâu muốn Thầy về làm thầy của họ
đâu, họ muốn bao giờ họ cũng điều khiển, chứ không phải Hòa Thượng giao sự điều
khiển đó cho người khác.
Vì Thầy thấy được điểm đó,
cho nên Thầy thấy không thể nào sống trong các Chiếu để giúp Hòa Thượng được.
Về sau này Thầy được Hòa
Thượng giao một khu đất ở Phước Hải được một người đệ tử cúng dường và Hòa Thượng
đặt tên là tu viện Chơn Lạc rồi giao khu đất đó cho Thầy.
Ra đó Thầy cất các thất
nho nhỏ như ở đây, cho nên mỗi thầy đều đăng ký xin một cái thất ở trong khu rừng
núi mà ở, vì là vùng biển cho nên khí hậu rất tốt, ai cũng thích, nhất là các
thầy có cơ thể bị bịnh thích ở vùng đó để cơ thể được khỏe mạnh.
Cho nên họ đều đăng ký đi
hết vì vậy mà Thường Chiếu gặp sự trống trơn. Sự đó không hay. Từ đó coi như
Hòa Thượng không chú ý đến tu viện Chơn Lạc nữa.
Bây giờ Hòa Thượng Huệ
Hưng yêu cầu Thầy về giúp, đẩy Thầy qua một góc độ khác.
Hòa Thượng Huệ Hưng là một
người chỉ biết Thầy, chứ Thầy chưa phải là đệ tử của Hòa Thượng Huệ Hưng thì
làm sao mà Thầy giúp cho Hòa Thượng Huệ Hưng, nhưng Hòa Thượng Huệ Hưng có sự đối
đải với người tu hành rất tốt, rất lịch sự. Hòa Thượng không lấy cái ngã của mình
là Hòa Thượng, trong Giáo Hội Phật Giáo Trung Ương, Hòa Thượng là Trưởng
Ban Tăng Sự, thế mà Hòa Thượng hạ mình đến đây mời Thầy. Hòa Thượng nghĩ rằng
người có công phu tu hành như Thầy mới giúp Hòa Thượng làm Phật Giáo sống lại
được, và đồng thời Hòa Thượng có ý muốn xây dựng một tu viện chuyên tu ở Càng
Long, khu đất của Hòa Thượng Thiện Hòa để lại.
Nhưng Thầy thấy các thầy ở
Càng Long cũng như các thầy ở Ấn Quang chẳng có tâm tha thiết cho sự tu giải
thoát, họ chỉ nhắm vào phần sống danh lợi hơn. Nhưng Thầy không nhắm vào Hòa
Thượng Huệ Hưng mà chỉ nhắm giúp Hòa Thượng Thanh Từ, dù một ngày là đệ tử thì
Hòa Thượng Thanh Từ cũng là thầy của mình, nên Thầy chỉ muốn làm sao cho con đường
Thiền của thầy mình sống mãi, đó là mình đền đáp ơn thầy mình. Nếu không nhận
là thầy của mình thì thôi, chứ khi đã nhận rồi thì phải làm sao cho mình xứng
đáng là người đệ tử.
Như quý thầy đã nghe lời
thỉnh nguyện của Thầy, dù như thế nào tình thầy trò của Thầy và Hòa Thượng
Thanh Từ không bao giờ có ai ngăn cản được, ai làm gì thì làm, tâm của Thầy đối
với Hòa Thượng vẫn là một bực thầy đáng kính, khả kính của Thầy, luôn luôn Thầy
kính trọng, không bao giờ Thầy coi Hòa Thượng dạy thiền như thế nào.
Hòa Thượng muốn dạy như thế
nào thì có quyền dạy như vậy. Thầy có những kinh nghiệm riêng của Thầy, giúp
thêm Hòa Thượng là giúp chứ không bao giờ nói Hòa Thượng thế này thế
khác.
Nhưng có nhiều người lấy
những lời dạy đúng đắn của Thầy mà họ lại nói rằng Thầy bài bác Hòa Thượng.
Không hiểu họ hiểu những điều Thầy dạy đó như thế nào.
Như quý thầy thấy khi Thầy
đem Thiền Đông Độ so sánh với 4 thiền của Phật, mục đích của Thầy là muốn cho
Hòa Thượng nhận xét được cái nào thực hiện được, cái nào thực hiện không được,
để giúp Hòa Thượng có những sáng kiến, từ đó Hòa Thượng đi dần dần vào con đường
nguyên thủy.
Cũng như bức thư của
Thượng Tọa Nhất Hạnh gởi cho Hòa Thượng có nhắc Hòa Thượng như thế này
"Chúng ta hãy trở về với con đường Nguyên thủy", Thượng Tọa Nhất Hạnh
có nhắc Hòa Thượng như vậy. Thật ra những điều Thầy nêu ra trong bài văn thỉnh
nguyện là muốn cho Hòa Thượng trở về với Phật giáo chơn chính để giúp cho một số
người đang theo Hòa Thượng đạt được kết quả. Sự thật nó vẫn là sự thật, không
thể nào chối cải được.
Nhưng lần thứ nhất là thiền
viện Chơn Lạc không kết quả. Lần thứ hai, khi hai cuộn băng Phật Môn Bảo Huấn
ra đời nhằm mục đích âm thầm giúp cho thiền viện Trúc Lâm. Lần thứ ba khi Thầy
trở về đưa dự thảo của phương án Trung Tâm An Dưỡng Từ Thiện Chơn Lạc xin Hòa
Thượng đứng ở trong đó để giúp đở cho Thầy làm công việc này. Hòa Thượng nói
Hòa Thượng chỉ lo việc tu học thôi, không làm công việc xã hội.
Thật ra, phải nhìn nhận
Trung Tâm An Dưỡng Từ Thiện Chơn Lạc, về hình thức nó là công việc từ thiện xã
hội, nhưng bên trong nó lại lồng vào đạo đức đạo Phật, có lợi ích rất lớn cho
con người, nó không chỉ nhắm vào một số người tu thiền để giải thoát sanh tử,
mà nó còn nhắm đem lại đạo đức nhân quả cho mọi người có mặt trên hành tinh này
để họ thông suốt đạo đức nhân quả thì xã hội an ninh, không bao giờ có ai làm tội
ác nào hết. Đó là mục đích mà Trung Tâm An Dưỡng Từ Thiện Chơn Lạc ra đời.
Nhưng lại một lần nữa không được Hòa Thượng chấp nhận.
Như quý thầy đã biết, đứng
trong vấn đề làm việc lớn này, Thầy không có nhân sự, đệ tử của Thầy cũng chẳng
có, thì Thầy làm nên được cái gì, nên khu đất đó chỉ để cho cây cỏ mọc chứ
không làm gì hơn được.
Gần đây Thầy có ý nghĩ muốn
di chúc lại cho những mầm non sau này của tổ quốc cái dự thảo phương án này.
Sau này có những đứa bé rất thông minh, rất giỏi, được cha mẹ cho sang ngoại quốc
học và khi trở về phục vụ cho dân tộc, cho đất nước, chúng nó sẽ làm công việc
này. Chúng nó sẽ là mầm non tương lai của dân tộc, của đất nước, sẽ đem lại đạo
đức cho dân tộc. Còn Thầy thì già rồi và không đủ duyên hợp tác.
Ba giai đoạn để Thầy giúp
đạo giúp đời đều không đạt. Nhất là giai đoạn Trung Tâm An Dưỡng Từ Thiện Chơn
Lạc, Thầy muốn đem đạo đức nhân quả để dạy con người, thì cũng chẳng thành. Vậy
bây giờ Thầy làm cái gì?
Bây giờ Thầy chỉ còn ẩn
bóng để chờ những đệ tử của mình tu tập cho xong mà thôi. Nếu hiện nay không có
những đệ tử đang theo Thầy tu tập thì chắc chắn Thầy đã nhập diệt rồi, chứ mang
thân này mệt mõi.
Mỗi lần ho, mỗi lần bịnh
là một lần thọ nghiệp khổ. Bỏ nó đi cho khỏe, có gì tiếc nó đâu. Ăn thì ngày một
bữa, có gì mà ngon, có gì mà béo bổ nữa mà ham.
Cho nên đối với Thầy chẳng
có gì ham nữa. Nhưng đáng thương cho các con đang theo Thầy tu học lở dở, không
lẻ Thầy bỏ các con, cho nên Thầy ẩn bóng để theo dỏi sự tu tập của các con, cho
đến khi nào các con thành tựu thì lúc bấy giờ Thầy sẽ ra đi vỉnh viển.
Đó là nguyện vọng hiện nay
của Thầy chứ giờ Thầy đâu còn mong núp sau lưng Hòa Thượng để giúp Hòa Thượng nữa.
Hết rồi. Đã ba lần, mà ba lần là quá sức rồi.
Các con chưa từng hiểu, thầy
Chơn Tịnh muốn đưa Thầy ra Thường Chiếu thì chiều phải về thành phố ngủ lại, 7
giờ sáng thì ở Thường Chiếu đã sám hối rồi, mình phải ra đó cho kịp giờ, nên cả
thầy trò 4 giờ sáng lo đi. Sám hối rồi lại trở về chứ không ở lại. Cực khổ và
khó khăn lắm chứ không phải dễ.
Thế mà mỗi tháng đều về
sám hối như vậy. Cho nên cuối cùng Hòa Thượng nói Thông Lạc cứ về hằng tháng
như vậy thì rất là vất vả. Thầy trò hiểu nhau rồi thì thôi, ở tại chỗ, đừng có
về nữa. Hòa Thượng nói với Thầy như vậy cho nên Thầy không về sám hối nữa.
Tình hòa hảo giữa huynh đệ
cũng như giữa thầy trò được một thời gian nhưng thời gian đó rất ngắn, bởi vì họ
không biết Thầy là người như thế nào mà luôn luôn hạ mình đến mức độ họ không
tưởng tượng được.
Thầy Chơn Tịnh đi theo Thầy
nói không chịu nổi lối hạ mình của Thầy.
Với huynh đệ cũng vậy, với
thầy Viện chủ cũng vậy, Thầy tu hành như vậy mà hạ mình như vậy. Như thế này:
khi đến xin sám hối mà Hòa Thượng ở bên Linh Chiếu thì Thầy phải qua bên Linh
Chiếu. Qua đó gặp Hòa Thượng thì Hòa Thượng không thèm nói một lời nào mà bỏ về,
thế mà Thầy vẫn đi theo sau Hòa Thượng để chứng tỏ cái tình người đệ tử rất hạ
mình biết tôn trọng thầy mình.
Chứ không phải như quý thầy
hiện giờ đâu, nói hơi nặng lời là quý thầy bỏ đi liền. Khi Hòa Thượng ở Linh
Chiếu, Thầy gặp Hòa Thượng rồi thì Hòa Thượng không nói một lời nào mà ngoe ngẩy
chống cây gậy đi về.
Hất hủi một cách rất là hất
hủi. Thầy Chơn Tịnh đi theo sau Thầy nói Thầy chịu đựng nổi, chứ con không thể
chịu đựng nổi. Thầy nói đã là Thầy của mình, như là ông cha của mình mà tại sao
mình lại chịu không nổi.
Đó là những hành động. Rồi
những khi mà Hòa Thượng tìm mọi cách tránh né không gặp Thầy, Thầy vẫn bền bĩ
ngồi chờ đợi, có những khi mưa dầm tầm tả.
Ngồi chờ đợi để gặp Hòa
Thượng xin một lời sám hối rồi trở về. Có thể 5 giờ chiều hay 7 giờ tối hai thầy
trò vẫn còn ở Thường Chiếu, sau khi gặp Hòa Thượng được rồi mới về trong đêm vắng,
không ở lại Thường Chiếu bởi vì mình biết ở lại Thường Chiếu thì chẳng có một đối
xử nào tình cảm đối với mình cả.
Nhưng Thầy vẫn giữ tính
cách của người đệ tử rất là biết trọng ơn thầy mình. Thầy nhìn hết các người đệ
tử của Thầy hiện giờ khó tìm được người như Thầy đã đối xử với Hòa Thượng.
Hôm nay Thầy nhắc lại để
cho các con thấy rằng người có tình nghĩa thầy trò như Thầy thì hiếm lắm. Cái bản
ngã của Thầy đã diệt mòn đi với sự tu tập thiền định của Thầy cho nên Thầy thấy
mình chẳng ra gì hết, mình là một con số không ở trong thế gian này, không có
gì hết. Bởi vì sự giải thoát là giải thoát, không có nghĩa giải thoát là bản
ngã.
Mình làm chủ được sanh tử không có nghĩa là mình hơn ai hết. Đối với Thầy
thì thấy mình không hơn ai hết, đối với Hòa Thượng Thầy vẫn thấy Hòa Thượng là
một bực thầy khả kính của Thầy, Thầy không thấy mình hơn Hòa Thượng chút nào hết.
Thầy chỉ thấy rằng mình là người đệ tử phải làm sao giúp thầy, đền đáp ơn thầy
là đủ rồi, còn toàn bộ Thầy hình như là không có.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét