04-TẠO DUYÊN GIÁO HÓA CHÚNG
SANH .
(Trích 1 bài
trong 40 bài của quyển tạp bút “CUỐI HÀNG DƯƠNG” Tác giả: THÍCH CHÂN QUANG viết
tại THƯỜNG CHIẾU vào HẠ năm 1987).
PHẦN I: NGƯỜI
CHIẾN THẮNG
LỜI NÓI ĐẦU
Khi tu tập
làm chủ bốn sự đau khổ: sinh, già, bệnh, chết xong, chúng tôi có những ước nguyện
muốn đem những kinh nghiệm tu hành này, dựng lại Chánh pháp của Đức Phật, để
giúp cho mọi người tu tập không còn lọt vào tà pháp ngoại đạo. Đó cũng là làm sống
lại con đường tu tập giải thoát mà từ lâu đã bị kinh sách Phát triển dìm mất.
Chính đó là mục đích của chúng tôi và mọi người đang tu hành theo Phật giáo đều
mong ước.
Chứng đạt
chân lí của Phật giáo là chứng đạt tâm Bất Động, chớ không phải chứng đạt một
cái gì khác lạ như mọi người đã từng nghĩ tưởng: nào là Phật tánh, nào là thần
thông, phép thuật, tàng hình, biến hóa; nào là phóng hào quang, bay lên trời
hay xuống địa ngục v.v…
Mà chính tâm
Bất Động là tâm vô lậu. Tâm vô lậu tức là chừng quả A La Hán.
Nhưng trước
khi muốn chứng quả A La Hán thì chúng ta phải thường học và tập sống đạo đức
nhân bản - nhân quả, luôn luôn không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả
chúng sanh.
Đó là một
bài tu học đầu tiên của đạo Phật. Một bài học thường đem lại lợi ích rất lớn
cho loài người, khiến cho mọi người sống chung nhau biết tùy thuận mọi ý kiến,
biết nhẫn nhục làm vui lòng mọi người mà không còn chống trái với nhau, biết bằng
lòng mọi hoàn cảnh để tâm mình Bất Động.
Nhưng
khi chúng tôi bắt tay vào làm việc để dựng lại nền đạo đức này thì gặp biết bao
nhiêu là gian nan, sóng gió, khiến chúng tôi quá mệt mỏi.
Chúng tôi
suy nghĩ rất nhiều: Đúng là chúng sanh chưa đủ duyên nên rất khó độ. Nhưng
không lẽ thấy khó mà không giáo hóa chúng sanh thì rất tội nghiệp. Vậy chúng
tôi phải làm sao bây giờ?
Khi chúng
tôi tu chứng đạt được chân lí nhìn lại duyên chúng sinh với mình thì thấy không
có đủ duyên để độ họ chứng quả A La Hán. Ngày xưa khi đức Phật tu xong Ngài
cũng thấy chúng sinh khó độ, vì thế Ngài tạo duyên hóa độ chúng sinh thì chúng
tôi bây giờ cũng làm như vậy. Phải hóa duyên độ chúng sinh, nhưng chúng tôi tự
hỏi phải làm bằng cách nào?
Khi đặt ra
câu hỏi như vậy thì chúng tôi tự trả lời: Phải tạo duyên mới chớ sao? Nhưng tạo
duyên mới bằng cách như thế nào? Bắt đầu ở đâu và người nào?
Chúng tôi nhớ
lại chỉ thấy có Hòa Thượng Thanh Từ là nơi có thể tạo duyên hóa độ chúng sinh dễ
dàng.
Vì Hòa Thượng
là người có uy tín trong hàng tăng, ni và phật tử hiện giờ.
Nhờ khéo tạo
duyên mới này mà quý phật tử mới biết đến Người Chiến Thắng và biết cách Trở Về
Đạo Phật. Nhất là bộ sách “Tạo Duyên Hóa Độ Chúng Sinh” đã giúp cho quý phật tử
nghiên cứu suy tìm mới biết rõ đâu là Chánh pháp của Phật và đâu là tà pháp của
ngoại đạo đang ẩn núp và mạo danh là giáo pháp của đức Phật.
Bộ sách khiến
cho mọi người đi tìm đường giải thoát không lầm lạc, không lấy tà pháp của Bà
La Môn làm Chánh pháp của Phật.
Nhìn
quí sư thầy tụng kinh, niệm Phật, đọc thần chú, cầu siêu, cầu an, xin xăm, bói
quẻ, xem ngày giờ tốt xấu cất nhà, dựng vợ gả chồng.
Ngày xưa khi
thấy những việc làm này của Tăng, Ni thì quý phật tử cho là đúng chánh
pháp của Phật, nhưng ngày nay khi đã đọc bộ sách “Thế Giới Siêu Hình Không Có”
thì quý phật tử biết ngay đó là Tăng, Ni đang sống trong mù quáng, mê tín do
kinh sách Phật giáo phát triển đã truyền dạy dẫn dắt họ đi trong thế giới ảo tưởng
khiến cho tiền mất tật mang, tốn hao công sức và tiền của một cách nhảm nhí.
Người Chiến
Thắng và Trở Về Đạo Phật là những cuộc tiếp chuyện giữa Hòa Thượng Thanh Từ và
thầy Thông Lạc về Phật pháp.
Do nhân
duyên này mà bộ sách Tạo Duyên Hóa Độ Chúng Sinh mới ra đời. Bộ sách ra đời mới
mà làm sáng tỏ Chánh pháp của Phật. Nhờ đó quý phật tử mới biết đâu là chánh
pháp của Phật; đâu là tà pháp của Bà La Môn.
Đó là chúng
tôi cố tạo duyên để mọi người biết chánh pháp của Phật; để mọi người tu tập đừng
sai. Nhưng phước chúng sinh quá mỏng dù có biết nhưng vẫn thích cúng bái cầu
tha lực hơn là tự lực.
Phật
pháp tu chứng đạo đâu phải khó khăn. Xưa đức Phật tu tập có 49 ngày thành đạo,
còn chúng tôi tuy mười năm tu tập sống độc cư trong thất, nhưng cuối cùng cũng
chỉ có sáu tháng với sự quyết liệt, nhiệt tâm chúng tôi đã thành công một cách
mỹ mãn.
Qua kinh
nghiệm tu hành chúng tôi dạy và chỉ rõ ràng từ giác ngộ chân lí đến phần sống
buông xả ly dục ly ác pháp để giữ gìn tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự,
rồi đến các pháp hành tu tập, pháp nào tu trước và pháp nào tu sau, thế mà mọi
người tu tập cứ để tâm phóng dật.
Tâm phóng dật
là tâm sẽ phạm giới thường dung ruổi chạy theo sáu trần. Khi tâm phạm giới thì
làm sao tâm ly dục ly ác pháp được.
Chúng
tôi hết sức khuyên dạy cho những ai có duyên gặp chúng tôi. Nhưng những lời dạy
của chúng tôi như gió thoảng ngoài tai, như nước chảy qua cầu, ít ai nghe lời
chúng tôi dạy.
Dù sao chúng
tôi cũng không nỡ bỏ chúng sinh, vì họ là những người đáng thương nên chúng tôi
cũng thường luôn nhắc nhở “Bí quyết thành công sự giải thoát của Phật giáo là sống
Độc Cư”.
Độc cư tức
là phòng hộ sáu căn. Thế mà, mọi người thường phá hạnh độc cư thích đi nói chuyện
với người này người khác nên chúng tôi rất mỏi mệt.
Hôm nay
chúng tôi chỉnh và nhuận lại bộ sách Tạo Duyên Giáo Hóa Chúng Sinh mong rằng
ngày mai có nhiều người nhờ bộ sách này tìm ra cho mình một đường lối tu tập
thích hợp và đúng với chánh pháp của Phật thì đó là chúng tôi đã mãn nguyện và
cũng là đền đáp ơn Đức Phật trong muôn một.
Vì chúng tôi
cũng biết rằng mình cũng sẽ không sống mãi trên đời này rồi phải từ giả cuộc đời
này ra đi mãi mãi.
Tuy biết rằng
chúng tôi không có thì giờ, nhưng chúng tôi cũng dành thời gian để chỉnh đốn lại
tập sách này cho hoàn chỉnh hơn.
Vì trước kia
thầy Chân Quang ghi tóm lược không được đầy đủ trong cuộc nói chuyện giữa Hòa
Thượng Thanh Từ và chúng tôi.
Với việc làm
này chúng tôi chỉ mong sao đem lại lợi ích cho mọi người khi họ đến với Phật
Giáo và cũng là đền đáp công ơn vô cùng vĩ đại của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
Trưởng Lão
Thích Thông Lạc
Kính
ghi
Lời Giới Thiệu
Người Chiến
Thắng là một câu chuyện được ghi lại trong một quá trình tu tập của Thầy Thông
Lạc. Người đã để lại một kinh nghiệm bằng máu và nước mắt của mình.
Từ lúc tu tập
theo pháp môn Đại Thừa và Thiền Đông Độ nhưng cuối cùng Người buông bỏ xuống sạch
các pháp môn này và chuyên cần tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ trong kinh sách Phật
giáo nguyên thủy.
Cuối
cùng Từ trên trạng thái tâm Bất Động của Tứ Niệm Xứ xuất hiện Tứ Thần
Túc, nhờ đó Người nhập Tứ Thánh Định rất dễ dàng và thực hiện Tam Minh không có
khó khăn.
Dưới đây được
Thầy Thông Lạc kể lại sự tu hành của mình trong giai đoạn tu tập pháp môn Đại
Thừa và Thiền Tông Trung Quốc do Hòa Thượng Thanh Từ hướng dẫn.
Được Hòa Thượng
Thanh Từ dựa vào Tạng kinh Đại Thừa và công án Thiền Tông Trung Quốc trắc nghiệm
và ấn chứng cho thầy Thông Lạc chứng quả A La Hán.
Xin các bạn
theo dõi sự trắc nghiệm của Hòa Thượng Thanh Từ và hỏi đáp của huynh đệ ở Thiền
Viện Thường Chiếu, để thấy rõ con đường tu tập của Đại Thừa và Thiền Tông chẳng
đem đến sự giải thoát thật sự mà chỉ nhập vào Không Tưởng.
Nếu có đủ
duyên chúng tôi sẽ xin Thầy Thông Lạc kể lại kinh nghiệm tu hành theo pháp môn
Giới, Đinh, Tuệ của Phật giáo Nguyên Thủy, đó là đoạn đường cuối cùng tu tập
theo Phật giáo mà Thầy Thông Lạc đã trở thành người chiến thắng hoàn toàn giặc
sanh tử.
Được Thầy
Thông Huyễn ghi lại như một máy thu băng có những danh từ không được chính xác,
khiến cho các bạn khó hiểu, Chánh Quang sẽ cố gắng chú thích để làm sáng tỏ
nghĩa trong công cuộc chiến thắng giặc vọng tưởng của Thầy Thông Lạc.
Kính ghi
Chánh Quang
Thay Lời Tựa
Đọc Người
Chiến Thắng các bạn mới thấy được Thầy Thông Lạc là một người tu pháp môn Thiền
Đông Độ và Đại Thừa thật rốt ráo, không thua gì các Tổ sư Trung Quốc tu tập ngày
xưa.
Đọc Người
Chiến Thắng các bạn mới thấy rõ Thầy Thông Lạc là người đã chứng được Thiền
Tông và được Hòa Thượng Thanh Từ, một thiền Sư danh tiếng trong thời đại của
chúng ta, dựa vào công án Thiền Tông và kinh sách Đại Thừa ấn chứng.
Đọc Người
Chiến Thắng chúng ta nhận xét lối ấn chứng của Hòa Thượng Thanh Từ giống như
các Tổ Thiền Tông Trung Quốc ngày xưa truyền tâm ấn cho các đệ tử của mình.
Đọc Người
Chiến Thắng chúng ta mới thấy rõ từ công phu tu tập đến vấn đáp đối với các bạn
trong Thiền Viện Thường Chiếu, chứng tỏ Thầy Thông Lạc rất thông hiểu Thiền
Tông và kinh sách Đại Thừa một cách am tường, không có chỗ nào mà Thầy không
thông suốt.
Nhưng Thầy
Thông Lạc tu hành chứng đắc như vậy, sao lại bác kinh sách Đại Thừa và Thiền
Tông?
Nếu có đủ duyên
các bạn hãy đọc Người Chiến Thắng phần hai. Phần hai này không do Thầy Chân
Quang ghi lại mà do một người khác ghi lại.
Người Chiến
Thắng phần 2 được ra đời, chừng ấy các bạn mới thấu rõ pháp môn Thiền Tông và
kinh sách Đại Thừa do bàn tay các Tổ sư Trung Quốc nhồi nắn bóp méo giáo lý
chân chính của Đức Phật, khiến con đường tu tập làm chủ sinh,già, bệnh, chết và
chấm dứt sinh tử luân hồi của Phật giáo mất dấu.
Sau khi tu tập
chứng được Thiền Tông Thầy Thông Lạc không tìm thấy sự làm chủ sinh, già, bệnh,
chết.
Nên Thầy bỏ
Thiền Tông và kinh sách Đại Thừa, cũng giống như Đức Phật ngày xưa khi tu chứng
nhập Không Vô Biên Xứ và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ xong,mà không tìm thấy sự
giải thoát, nên Ngài cũng bỏ những loại thiền tưởng này và bỏ luôn pháp tu khổ
hạnh của Bà La Môn.
Sau khi bỏ
các pháp của ngoại đạo xong Đức Phật bắt đầu tu lại Bốn Thiền Hữu Sắc do Ngài tạo
ra phương pháp tu tập ly dục ly bất thiện pháp cụ thể hơn.
Muốn tu tập
nhập Sơ Thiền hữu sắc có kết quả tốt nên Ngài phải sáng tạo ra pháp môn Tứ
Chánh Cần và Tứ Niệm Xứ và nhờ các pháp môn này Ngài li dục li bất thiện pháp rất
dễ dàng, chứng đạt tâm bất động không có khó khăn.
Từ trong tâm
Bất Động, Bốn Thần Túc xuất hiện, nhờ đó Ngài nhập bốn thiền hữu sắc và thực hiện
Tam Minh. Sau khi thực hiện Tam Minh Ngài thấy biết lậu hoặc đã sạch, không còn
một chút xíu nào cả.
Từ khi không
tu theo Thiền Đông Độ nữa Thầy Thông Lạc bắt đầu tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần
và khi thấy tâm Bất Động luôn tỉnh thức trên Tứ Niệm Xứ. Nhờ tu theo kinh sách
Phật giáo Nguyên Thủy tâm Thầy ly dục ly ác pháp hoàn toàn.
Sau sáu
tháng tu tập trên Tứ Niệm Xứ Thầy Thông Lạc là người chiến thắng giặc sinh tử,
ca khúc khải hoàn. Chiến thắng giặc sinh tử,ca khúc khải hoàn là một sự thật.
Là một sự thật thì phải có phương pháp tu tập hẳn hoi, phải có nội lực điều khiển
làm chủ thân tâm, chứ không như Thiền Tông chỉ biết buông vọng không theo.
Do trình bày
sự tu chứng và làm chủ sự sống chết, Thầy Thông Lạc xin Hòa Thượng Thanh Từ nhập
Niết Bàn bằng cách tịnh chỉ hơi thở theo Thiền thứ Tư trong Tứ Thánh Định, nên
được Hòa Thượng Thanh Từ tuyên bố với Phật tử Thầy Thông Lạc chứng quả A La
Hán.
Đến đây
chúng tôi xin chấm dứt lời tựa về Thầy Thông Lạc hôm nay. Xin các bạn hãy đọc
phần hai Người Chiến Thắng trong pháp môn tu tập Thiền Phật Giáo Nguyên Thủy.
Các bạn còn có dịp rút ra nhiều kinh nghiệm có giá trị rất cao về sự tu tập
trên đường về xứ Phật theo đúng chánh pháp của Phật.
Kính ghi
Mật Hạnh
LỜI BẠT
Sau khi đọc
lại “Người Chiến Thắng” của thầy Chân Quang ghi lại còn thiếu sót rất nhiều nên
chúng tôi cần phải chỉnh đốn lại để cho người khi đọc về thầy Thông Lạc là phải
hiểu đúng một sự thật. Khi chúng tôi tiếp chuyện với Hòa Thượng Thanh Từ thì chỉ
có hai Thầy trò, nên giữa Thầy trò không có người thứ ba biết, vì thế thầy Chân
Quang không thể ghi đầy đủ những lời đối đáp.
Sách mà viết
sai là để lại cho đời những tai hại rất lớn, nhất là sách thuộc về tôn giáo lại
còn tai hại cho nhiều thế hệ. Bởi tôn giáo là nhu cầu cần thiết cho tinh thần mọi
người.
Kính thưa
quý vị! Đừng háo danh khi tu hành chưa tới nơi tới chốn mà vội viết kinh sách
là phải mang tội giết nhiều người, giết nhiều thế hệ như kinh sách phát triển.
Quý vị có biết không?
Xin quý vị đừng
múa bút viết sách theo kiến giải khi mình tu chưa xong, sách đó sẽ gây đau khổ
cho loài người và tạo thêm tội ác cho mình.
Những sách
đó chẳng ích lợi gì cho ai cả, chỉ làm thỏa lòng danh lợi của mình.
Chúng tôi
quyết chỉnh sửa lại cho đúng những gì chúng tôi gặp Hòa Thượng Thanh Từ và các
bạn ở Thường Chiếu.
Sau khi chỉnh
sửa xong chúng tôi mong rằng Tập sách mỏng “Tạo Duyên Giáo Hóa Chúng Sinh” sẽ
mang lại cho quý vị một sự hiểu biết về Phật giáo cụ thể hơn và không còn bị
kinh sách phát triển Đại Thừa lừa đảo, làm phí công, phí của rất nhiều của quý
vị.
Nếu tập sách
này có điều chi còn sơ sót chúng tôi chỉ mong quý vị bỏ qua và góp ý chỉ điểm
những chỗ sai lầm ấy để kỳ tái bản tới được hoàn chỉnh hơn. Xin thành kính tri
ân.
Trưởng Lão
Thích Thông Lạc
Kính
ghi
Thỉnh thoảng
THẦY THÔNG LẠC lại về Thiền Viện Thường Chiếu thăm Sư phụ (HT Thanh Từ) và các
huynh đệ. Sáng nay, chúng tôi lại trông thấy Thầy từ cuối hàng dương liễu cùng
với cư sĩ THIỆN CHÍ (đệ tử của Thầy) anh ĐỖ ĐÌNH ĐỒNG và một bà ƯU BÀ DI (Diệu
Nhiên).
Dáng người
Thầy nhỏ nhắn, cặp kính không che dấu được đôi mắt thanh thản, ung dung, chòm
râu bạc lơ thơ dưới cằm.
Thầy
thường mặc chiếc áo tràng màu vàng khi đi đường và hôm nay cũng vậy. Những đệ tử
của Tu Viện CHÂN KHÔNG và THƯỜNG CHIẾU ít ai không biết THẦY THÔNG LẠC.
Thầy là một
trong mười thiền sinh đầu tiên của Tu Viện CHÂN KHÔNG.
Thầy được
phân công làm hương đăng cho hợp với tuổi tác và vóc dáng.
Kể từ khi Thầy
được Sư phụ giảng cho nghe pháp môn Tri Vọng: Thầy như con đại tượng qua sông
không quay lại, đã tinh tấn không phút giây lơi lỏng. Có lần Sư phụ tuyên bố:
- Trong pháp
hội có người đại tinh tấn.
Và lúc đó ai
cũng ngầm hiểu người đó là Thầy.
Rời khỏi
Chân Không
Thường thì
ít ai biết chịu thua vọng tưởng, nhưng khi nó mời gọi những ý kiến hấp dẫn thì
khó tránh khỏi vòng tay của nó.
Vì thế, THẦY
THIỆN NĂNG và THIỆN ẤN bất ngờ đến rủ THẦY THÔNG LẠC rời CHÂN KHÔNG ra đi giáo
hoá sau ba tháng vẻn vẹn học thiền, qua những bài kinh BÁT NHÃ, cuốn NGUỒN THIỀN,
Thiền Quang Sách Tấn, Trung Hoa Chư Thiền Đức Hành Trạng và kinh Lăng Già Tâm Ấn.
Thầy Thông Lạc
không chấp nhận ý kiến phóng dật chạy theo ngũ dục lạc (đi chu du chơi), mà lại
mượn danh từ HÀNH ĐẠO để lừa mình, lừa người thật là tội lỗi vô cùng.
Thầy
Thông Lạc thẳng thắn nói theo tâm nguyện của mình:
“Tôi đã hứa
với Sư phụ: là sẽ ở đây học thiền suốt ba năm. Đâu lẽ bây giờ lại ra đi
thì lời hứa kia còn ra gì?
Xin quý Thầy
cứ đi, Thông Lạc xin ở lại đây tu học đến khi nào chứng đạo mới thôi”.
THẦY THIỆN ẤN
nói khích:
- Tôi biết
mà - Thầy muốn ở lại để được khen là đại tinh tấn chứ gì.
Như một ngón
nhất dương chỉ điểm đúng vào yếu huyệt sợ danh dự của thầy THÔNG LẠC.
Sau một đêm
suy tư không ngủ, nước mắt thầy THÔNG LẠC tràn trề. Ở thì không được vì lời nói
của Thầy THIỆN ẤN quá cay độc, còn đi thì thương Thầy (HT THANH TỪ) và thân phận
tu hành của mình, không biết rồi sẽ ra sao? Đi về đâu?
Đối với Hòa
Thượng THANH TỪ thì Thầy trò mới gặp nhau trong ba tháng an cư năm 1970 mà tình
nghĩa rất sâu đậm.
Sáng hôm sau
THẦY THÔNG LẠC trả lời đồng ý ra đi.
Sự ra
đi đột ngột ấy làm sao thầy THÔNG LẠC quên được tình nghĩa Thầy trò. Những buổi
ngồi thiền chung với chúng trong thiền đường, Hòa Thượng cầm thiền bản đi tới
đi lui tuần thiền, để xem xét và kiểm tra cách thức chúng ngồi thiền.
Trong khi ấy
thầy THÔNG LẠC ngồi thiền đau chân lắm, Hòa Thượng biết được sự đau đớn này nên
lấy bàn tay để nhẹ sau lưng của thầy THÔNG LẠC. Khi bàn tay Hòa Thượng đặt vào
sau lưng, thì thầy THÔNG LẠC cảm thấy mát lạnh, sự đau đớn ấy giảm đi rất nhiều.
Tình thương
bằng hành động ấy làm sao thầy THÔNG LẠC quên được; làm sao Thầy THÔNG LẠC
không khóc.
Lời nói cay
nghiệt của Thầy Thiện Ấn bắt buộc thầy Thông Lạc phải ra đi, phải rời Hòa Thượng,
một vị Thầy mà trên đời này khó tìm được, tình thương của Hòa Thượng THANH TỪ
như vậy thì lòng dạ nào không đau sót; thì lòng dạ nào không tan nát. Phải
không các bạn?
Thầy THÔNG LẠC
khóc nhiều lắm nhưng có ai biết đâu. Cho nên tối hôm đó ba người đến đảnh lễ
Hòa Thượng để sáng sớm hôm sau ra đi, thầy THÔNG LẠC khóc nức nở nghẹn
ngào.
Hòa Thượng
cũng không nói được lời nào, chỉ nhìn những người học trò thân thương của mình
quá dại dột:
Hòa Thượng
nhẹ nhàng nói qua hơi thở như một lời trách móc:
-Thầy sợ mấy
chú nông nổi.
Hòa thượng
chỉ nói được những lời ấy thôi, rồi im lặng. Trong bầu không khí vắng ngắt,
không một tiếng động, trong sự chia lìa thương đau trước cảnh kẻ ở, người đi,
thật là đau buồn tê tái, đứt từng đoạn ruột, nói làm sao hết nỗi thương đau
này. Các bạn có biết không? Có cảm nhận được sự chia ly đau buồn này không?
Trong tu viện
chỉ có 10 huynh đệ mà bây giờ đi mất ba người làm sao mà không buồn, không rơi
nước mắt được.
Những ngày sống
trên Hòn Sơn , Ba người đã ra đi trong sự bất bình của huynh đệ và chính
sư phụ cũng không vui.
Ba người xuống
đến AN GIANG rồi qua RẠCH GIÁ ra biển đến HÒN SƠN chơi ba ngày lại trở về AN
GIANG trú nơi tịnh xá NGỌC VÂN xã MỸ LUÔNG do sư ĐỊNH làm trụ trì. Chợt THẦY
THÔNG LẠC nhuốm bệnh nặng 2 thầy kia bỏ đi sang núi CÔ TÔ, HÀ TIÊN chơi, nhưng
lại nói đi hóa đạo.
Tịnh xá chỉ
còn lại hai sư và thầy THÔNG LẠC. Đó là SƯ DUYÊN và SƯ ĐỊNH, SƯ DUYÊN săn sóc
cho thầy Thông Lạc rất tận tình,
thường đi
xin Phật tử từng bát cháo, từng viên thuốc, từng ly nước.
Thật là một
tình nghĩa bạn đạo khó quên. Đến khi bệnh tình giảm thầy THÔNG LẠC theo SƯ ĐỊNH
về SÀI GÒN, sẵn thầy Thông Lạc về TRẢNG BÀNG thăm lại mẹ và em gái ít hôm. Thầy
lại từ giã ra đi một mình một bóng trở lại ra HÒN SƠN RẠCH GIÁ ngồi tu ngót gần
một năm trong cái hang đá.
Những thợ rừng
thỉnh thoảng mang cơm gạo cúng dường Thầy. Thầy cảm thấy không tiện, nên tập ăn
rau và lá cây rừng để sống.
Suốt thời
gian sống trên đỉnh HÒN SƠN, trong hang núi Ma Thiên Lãnh bằng lá cây rừng và
rau sà lách son trồng trong ao nước giữa hai tảng đá to lớn. Người Thầy xanh và
gầy như que tăm.
Nhờ sống được
như vậy Thầy tu tập dẹp sạch vọng tưởng, ngồi bất động suốt 3, 4 tiếng đồng hồ
dễ dàng.
Trở về sống
bên mẹ
Những đêm
khuya thanh vắng tiếng tàu đánh cá ngoài khơi văng vẳng gợi lên lòng nhớ thương
mẹ và em nơi quê nhà, trong khi đất nước còn bom cày, đạn xé từng tấc đất yêu
thương, thầy THÔNG LẠC tự hỏi:
Không biết
giờ này mẹ mình và em mình ra sao? Có tránh khỏi những làn tên mũi đạn hay
không? Có còn bình an ở nơi đó hay không? Hay đã xiêu lạc nơi nào?
Bao nhiêu
câu hỏi dồn dập trong đầu, không sao trả lời được. Bây giờ pháp tri vọng vô
phương không dẹp được những loạn tưởng này. Thầy THÔNG LẠC xót xa thương mẹ và
đứa em gái, trong khi tuổi còn học trò mà phải lăn xả vào đời buôn gánh bán
bưng để nuôi mẹ.
Mỗi lần em
đi buôn bán thì mẹ ngồi tựa cửa trông em, nhớ tưởng cảnh ấy lòng Thầy tê tái
thương mẹ, thương em vô cùng, phải chi thầy THÔNG LẠC có cánh thì Thầy sẽ bay về
bên mẹ liền tức khắc.
Thương em
thân gái bé thơ mà phải chịu gian truân trong cảnh đất nước đang hồi chiến
tranh quyết liệt. Khi nào thấy mặt em về đến nhà thì mẹ mới an tâm.
Tội nghiệp mẹ
và em lắm. Nghĩ đến đây Thầy không cầm được những giọt nước mắt, không thể ngồi
yên tu hành trên HÒN SƠN được mà chỉ mong được về bên mẹ, được núp dưới bóng mẹ
như lúc còn bé thơ và sống như vậy mới an tâm tu hành, dù sống bên mẹ có gian
khổ như thế nào thì mẹ con đồng chia sẻ nhau, Thầy an ủi mẹ, mẹ an ủi Thầy, Thầy
an tâm tu hành, vì có mẹ có em, mẹ an tâm vì có hai con một bên.
Hôm sau Thầy
đón tàu về bên mẹ.
Khi trở về
nhà Thầy nói với mẹ:
- Mẹ ráng
nuôi con ngày một bữa để con được an tâm tu hành nghe mẹ! Cuộc đời của con chỉ
còn biết tu mà thôi, con thương mẹ lắm, con không thể bỏ mẹ một mình ngồi tựa cửa
trông em con.
Nghe thầy
THÔNG LẠC nói như vậy mẹ Thầy không cầm được nước mắt, những giọt nước mắt rơi
xuống nói lên lòng mẹ thương con vô cùng vô tận. Nhớ lại lời ca Y Vân: “Lòng mẹ
bao la như biển Thái Bình dạt dào”.
Thầy quay lại
nói với em:
- Em ráng
nuôi anh tu hành, anh về em phải cực nhọc nhiều hơn. Anh sẽ làm phụ em những gì
anh làm được và anh sẽ tiết kiệm tối đa để em đỡ vất vả, nhất là em yên tâm nhà
có anh bên mẹ và chăm sóc mẹ thay em.
Em Thầy nói:
- Thầy cứ an
tâm tu tập, có mẹ lo cơm nước cho Thầy, còn em buôn bán đắp đổi qua ngày, Thầy
đừng lo để mặc em.
Người chiến
thắng giặc sinh tử
Thầy khép cửa
thất lá lại, bắt đầu sống cuộc đời cô đơn và cô độc suốt gần mười năm liền.
Người em gái
buôn gánh bán bưng chắt mót từng đồng để nuôi mẹ, nuôi anh.
Mẹ Thầy lo
nhiệm vụ hộ thất mang cơm xách nước cho Thầy qua khung lỗ nhỏ.
Thời gian lặng
lẽ trôi qua mãi, những đĩa rau khoai lang luộc với chén nước tương hoặc nắm muối
trắng bên cạnh tô cơm là những gì nuôi nấng chút sức lực còn lại để Thầy âm thầm
chiến đấu với giặc sanh tử từ muôn kiếp.
Thầy nhớ
văng vẳng bên tai lời của sư phụ (Hòa Thượng THANH TỪ):
“Phật pháp
còn hiện hữu ở thế gian bởi vì còn có người tu chứng”.
Đúng vậy, nếu
Phật pháp không có người tu chứng thì giáo pháp của ngoại đạo sẽ diệt mất Phật
pháp. Bằng chứng cụ thể như hiện giờ Kinh sách Đại Thừa và kinh sách Thiền Tông
của Trung Quốc đã diệt mất Phật pháp ở nước này.
Vì sợ danh dự
mà ra đi, nhưng lòng Thầy lúc nào cũng nhớ đến sư phụ: chỉ nguyện dốc hết sức
tiến tu đền ơn sư phụ đã chỉ dạy đường lối tu hành quí báu, cũng là để cho Pháp
môn Thiền Tông hiện hữu ở mãi thế gian, để cho chúng sinh có nơi nương tựa từ
thế hệ này đến thế hệ mai sau và mãi mãi.
Lúc mới dụng
công Thầy cũng cố gắng biết vọng không theo, nhưng vọng tưởng chập chùng ngăn
che cái biết không hiện tiền, vọng tưởng lừa gạt tuôn chảy mãi.
Thầy tự thấy
chưa đủ trình độ đi con đường thẳng tắp này nên lui lại áp dụng phương pháp đếm
hơi thở. Sau khi đếm hơi thở thuần thục Thầy lại chuyển sang tùy tức, theo dõi
hơi thở. Sau một thời gian chuyên chú tăng tiến, sức tỉnh giác đã mạnh Thầy mới
trở lại phương pháp biết vọng không theo.
Hồi ở trên
CHÂN KHÔNG Sư phụ có đưa một tập sách trong Đại Tạng Kinh chữ Hán bảo THẦY
THÔNG LẠC dịch, nhưng Thầy xin được giữ độn công phu, không trọng nghĩa giải.
Bây giờ ở
trong thất kín cũng vậy Thầy bỏ hết sách vở, một bề miên mật xoay về nội tâm tỉnh
giác.
Có những khi
Thầy bắt chân lên ngồi liền thấy rõ cảnh vật ở làng xa xa, nhưng không chấp nhận,
Thầy xả thiền đi kinh hành. Hôm thầy NHẬT QUANG về thăm quê có ghé thăm thầy
THÔNG LẠC. Thầy THÔNG LẠC có hỏi thăm về sự việc này Thầy NHẬT QUANG bảo đó là
ngũ ấm ma.
Khi Thầy NHẬT
QUANG về núi thuật lại cho Sư phụ, Sư phụ có viết một bức thư gửi cho Thầy
THÔNG LẠC, nhưng bức thư đó không đến.
Những tháng
ngày tiếp nối lặng lẽ trôi qua, cuộc đời bên ngoài biến chuyển rộn ràng, chiến
tranh khói lửa ngút ngàn. Đến năm 1975 thì hòa bình lập lại sau cuộc chiến thắng
lớn lao của quân đội giải phóng.
Cả nước đang
nỗ lực góp sức xây dựng lại quê hương sau bao nhiêu năm chinh chiến.
Hoàn cảnh
lúc này có khó khăn vì mới bước đầu dựng lại nền kinh tế độc lập cho xứ sở và
dĩ nhiên sinh hoạt Phật giáo cũng có phần ảnh hưởng.
Tu viện CHÂN
KHÔNG chỉ còn vài thầy với Sư phụ, các thầy trẻ tuổi về mở mang canh tác ở THƯỜNG
CHIẾU.
Nhưng trong
chiếc thất lá đơn sơ này có một bóng người ngồi lặng lẽ, thản nhiên, không bận
tâm về các việc khác. Người này đang còn bận phải lập một chiến công oanh liệt
nhất là tự chiến thắng mình.
Cuộc chiến
này chưa ngã ngũ, những tên giặc vọng tưởng vi tế còn lẩn lút đâu đây.
THẦY THÔNG LẠC
vẫn kiên trì, không chút lơi lỏng, từng giờ, từng phút, từng giây đều kỹ lưỡng
tỉnh giác, không cho sơ hở. Khi ăn, lúc uống, khi đứng, lúc đi, khi ngồi thiền,
lúc xả thiền đều miên mật chăm chú.
Một thời
gian dài lâu trôi qua như vậy. Một hôm Thầy chợt nghĩ: “Chư Phật thành đạo đều
do sức đại hùng, đại lực, bây giờ mình phải khởi phát đại hùng để dứt hẳn vọng
tưởng vi tế này”.
Thầy bắt
chân lên bồ đoàn ngay thẳng tập trung sức tỉnh giác tột độ, cột trói tâm vào
hơi thở, vào mắt, vào tai. Quả nhiên dòng vọng tưởng vi tế bị cột lại cứng ngắc.
Thầy dần dần
cảm thấy thân thể bị đau đớn quá đỗi, nhưng như con đại tượng đã qua sông không
ngó lại Thầy vẫn chịu đựng để mong dứt sạch vọng tưởng cuối cùng.
Khi Thầy thấy
dễ chịu và xả thiền thì đã qua mất một đêm không hay, sáng mẹ Thầy mang cơm
vào, Thầy nói: “Bây giờ con ngồi thiền nếu mẹ thấy thân con còn ấm thì thôi,
còn nếu thấy thân con đã lạnh thì gọi bà con lại chôn con”.
Mẹ Thầy ngỡ
ngàng nhìn Thầy rồi lui ra, không tin những điều vừa nghe được. Nhưng những giọt
nước mắt của mẹ Thầy rơi xuống, không dấu được Thầy.
Thầy thương
mẹ lắm, nước mắt của Thầy cũng chảy dài trên má. Thầy tự hứa với lòng mình: phải
ráng tu để đền đáp ơn mẹ, ơn nhiều người.
Thầy lại lên
bồ đoàn, lại tập trung sức tỉnh giác tột độ như vậy và cảm giác đau đớn lại khởi
lên. Vẫn ý chí ngất trời xanh, vẫn tâm nguyện kiên cường như núi đá. Thầy tiếp
tục ngồi không lay động.
Người mẹ già
mỗi ngày mang cơm vào rồi lại mang ra, vì Thầy ngồi mãi không xả. Bà lo sợ, nước
mắt lại tuôn rơi, sợ Thầy chết mất, nên đến gần quan sát thì thấy vẫn còn hơi
nóng nơi thân của Thầy, nên yên tâm đi ra, nhưng không sao giữ được những giọt
nước mắt thương con, Bà thương con lắm, tu hành sao khổ đến thế!
Đến ngày thứ
bảy thì Thầy xả thiền, bà mừng rỡ mang cơm vào cho Thầy định hỏi thăm vài điều,
nhưng thấy Thầy nhìn bà như nhìn một người xa lạ và không nói câu nào, không bảo
đói, không nói khát chỉ ngồi trơ trơ như người từ một thế giới nào lạc vào đây
vậy.
Lúc này thầy
THÔNG LẠC đang ở trong cái đại tử của nhà thiền, mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe
nhưng mọi suy nghĩ phân biệt không khởi, có cơm thì ăn, có nước thì uống, chứ
không còn thấy đói khát gì cả.
Khi ngồi thiền
khi xả thiền đều từ thói quen của tay chân tự động, chứ không tác ý. Thời gian
đại tử này kéo dài gần hai tháng.
Một hôm Thầy
bắt chân ngồi sát bàn Phật mà không biết, đến khi xả thiền kéo chân ra đụng vào
góc bàn Phật liền đó tan vỡ.
Xem như giai
đoạn tu tập Thiền Tông Tối Thượng Thừa đến đây là xong. Nhưng khi trở ra đời sống
bình thường, không ở trong trạng thái đại định này thì Thầy thấy tâm mình còn
tham, sân, si, mạn, nghi và còn mạnh hơn lúc chưa tu, nhưng tâm rất khôn khéo
lý luận che đậy bằng những lời lẽ mà các sư đệ thường gặp trong kinh sách Thiền
Tông và Đại Thừa như:
“Tự tại
vô ngại đói ăn khát uống mệt ngủ liền” hoặc “Vô sở đắc” hoặc “Còn thấy tu chứng
là chưa chứng”hoặc
“Em là em,
Phật là Phật, em không phải là Phật, Phật không phải là em”...
Tu xong rồi
tâm vẫn còn phiền não, bệnh đau phải đi bác sĩ, uống thuốc, không biết cách nào
làm chủ sự sống chết.
Tu hành chỉ
có thông suốt tất cả những công án và kinh sách Đại Thừa để làm gì? khi không
làm chủ sanh, già, bệnh, chết.
Thầy rất buồn
nản, chẳng còn muốn sống, 10 năm tu tập trong thất rất là gian khổ chỉ có một số
tưởng giải để lý luận hơn thua, thế là cuộc đời tu hành của Thầy trở thành số
không.
Nhập vào trạng
thái không vọng tưởng thì 18 loại hỷ tưởng xuất hiện, biết chuyện quá khứ vị
lai của mình của người rất rõ ràng, nhưng để làm gì đây? Để trở thành thầy bói
ư!
Thầy muốn chết
đi là xong, muốn vào rừng tự tử cho xong một đời tu hành chẳng ra gì.
Tu hành như
thế này còn mang nợ của đàn na thí chủ, chẳng ích lợi gì cho ai, chỉ có nói dối
lừa người.
Ôi! Thật là
xót xa vô cùng, phí một đời người chỉ trở thành người nói dối có kinh sách, giới
luật thì vi phạm không một giới nào là không vi phạm (phạm giới trong ý).
Đúng là chết
quách đi cho rồi, nhưng mẹ còn sống mà chết đi là bất hiếu.
Bây giờ Thầy
ở trong tình trạng như muốn điên loạn, thầy lấy tập kinh Trung Bộ song ngữ do
Hòa Thượng MINH CHÂU dịch ra đọc cho hết thời gian, như khi đọc đến những câu:
“Tác ý một tướng khác thì tướng kia bị diệt” hoặc “Quán ly tham tôi biết tôi
hít vô” hoặc “Quán từ bỏ tâm tham…” hoặc “Quán đoạn diệt tâm tham...”.
Đọc đến những
đoạn kinh này thầy THÔNG LẠC như bừng tỉnh. Thầy áp dụng vào đời sống tu hành của
mình ngay liền, Thầy không ngồi kiết già nữa vì ngồi kiết già tâm sẽ nhập vào
Không Vô Biên Xứ Tưởng, Thầy rất sợ 18 loại tưởng xuất hiện, nên chỉ ngồi tựa cửa
thất nhìn trời mây cây cỏ mà tác ý: “TÂM NHƯ ĐẤT LY THAM, SÂN, SI CHO THẬT SẠCH”.
Nhờ tác ý
như vậy tâm Thầy lần lượt quay vào định trên thân, Suốt ngày đêm Thầy không ngủ
luôn luôn biết hơi thở ra, vô và cảm giác toàn thân.
Chính lúc
này tâm Thầy đang quán trên thân tức là Thầy đang tu tập TỨ NIỆM XỨ mà không biết.
Tâm định trên thân suốt sáu tháng trời khi đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống đều biết
chỉ có một tâm đó.
Một hôm trên
tâm thanh tịnh đó xuất hiện Bốn Thần Túc Thầy liền biết một cách rõ ràng, nhưng
cái biết đó không phải là ý thức mà cái biết đó là thức uẩn nên Thầy dùng thần
lực đó nhập bốn định Hữu Sắc và thực hiện Tam Minh. Thầy hoàn toàn làm chủ
sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt luân hồi sanh tử. Thầy biết rất rõ chỉ còn một
đời sống này nữa mà thôi. Tâm Thầy không còn một chút tham, sân, si, mạn, nghi
nào cả.
Sau sáu
tháng tu tập với câu tác ý đơn giản, mà thành công vĩ đại không ngờ. Sự thành
công này mở màn cho nền đạo đức nhân bản – nhân quả của Phật giáo ra đời.
Thầy mở cửa
thất đi ra làm người chiến thắng vinh quang sau hơn mười năm giam mình trong cô
đơn hiu quạnh, Thầy đi đến mẹ mình nói: “Từ nay mẹ khỏi mang cơm vào thất, vì
con sẽ ra đây ăn cơm với mẹ! Con đã tu xong rồi”.
Mẹ Thầy vui
mừng quá đỗi nói: “Thời gian qua mẹ tưởng con điên mất và nhất là lo sợ con chết”.
Có lẽ lời
nguyện hứa từ kiếp nào đã làm tròn, bà cụ ra đi sau đấy ba tháng.
Mẹ ra đi vào
cõi vĩnh hằng, trong nhà chỉ còn lại hai anh em, nên thầy Thông Lạc xin một đứa
cháu mới tám tuổi, đặt cho pháp danh là Mật Hạnh, về nuôi, cho đi học và
dạy tu hành.
Sau mười năm
nhọc nhằn nuôi mẹ, nuôi anh, giờ đây, người em được Thầy giúp đỡ mọi công việc
nặng nhọc, đặt cho pháp danh là Diệu Quang và lại dạy tu hành ngồi thiền xả
tâm. Đó là hai người đệ tử cư sĩ đầu tiên được quy y với Thầy.
Tạo Duyên
Giáo Hóa Chúng Sinh
Thấy mình
không có duyên giáo hóa chúng sanh, nên Thầy muốn thị hiện NIẾT BÀN để gây niềm
tin cho mọi người rằng: Thời mạt pháp vẫn có thể tu chứng.
Việc lợi ích
chúng sinh của Thầy chỉ như vậy, chỉ là gây niềm tin cho mọi người bằng hình ảnh
NIẾT BÀN của mình.
Thầy cất
một cái nhà sàn định dùng làm giàn hỏa thiêu. Nhưng Thầy thấy chúng sanh còn
quá khổ, bỏ đi sao đành, con đường tu hành theo Phật giáo để được giải thoát
thì bị kinh sách phát triển Đại Thừa và Thiền Đông Độ dìm mất, còn mình thì
không có duyên làm sao cứu họ đây.
Thầy suy tư
rất nhiều để tìm mọi cách độ chúng sanh. Rồi Thầy lại nhớ ngày xưa đức Phật còn
hóa duyên độ chúng sanh thì Thầy bây giờ cũng vậy. Phải hóa duyên độ chúng
sanh, nhưng phải bằng cách nào?
Rồi Thầy tự
trả lời câu hỏi: Phải tạo duyên mới chớ sao? Nhưng tạo duyên mới như thế nào?
Người nào? Ở đâu?
Để trả lời
những câu hỏi này Thầy dùng trí tuệ tu chứng quan sát khắp nơi: Chỉ thấy có Sư
phụ (Hòa Thượng THANH TỪ) là nơi tạo duyên hóa độ chúng sanh dễ dàng.
Sư phụ người
đã dạy bảo, đã khích lệ mình mới có sự tu chứng như ngày hôm nay, Thầy tìm về
núi cũ để thăm Sư phụ và tạo duyên giáo hóa chúng sanh.
Cảnh vật nơi
CHÂN KHÔNG thay đổi nhiều quá, đường lên núi được lát đá sắp cấp dễ đi hơn nhiều.
Hai bên đường là những am thất sang trọng, Thầy PHƯỚC HẢO bỡ ngỡ nhìn ông già
xa lạ từ đâu đi đến tự xưng là THÔNG LẠC. Thầy THÔNG LẠC nói:
- Thầy nhớ
tôi không? Tôi là THÔNG LẠC đây!
Thầy PHƯỚC HẢO
không tin người đứng trước mặt mình là người huynh đệ THÔNG LẠC ngày xưa.
THÔNG LẠC
ngày xưa đẹp đẽ nho nhã bao nhiêu thì ông già này tiều tuỵ già cỗi bấy nhiêu,
mái tóc dài lõa xõa, chòm râu bạc lơ thơ răng chiếc còn, chiếc mất làm sao
THÔNG LẠC được.
Nhưng dù sao
Thầy PHƯỚC HẢO cũng nhận ra được và huynh đệ rất mừng tay nắm tay. Sau khi uống
nước xong Thầy Phước Hảo giới thiệu lên Sư phụ.
Đi vòng qua
THIỀN ĐƯỜNG uy nghi mát mẻ, qua tăng đường chỉ còn trơ lại nền đất, lên dốc ĐẠI
MAI uốn quanh, khỏi cốc Thầy KIẾN THIỆN là phương trượng Sư phụ. Sư phụ nhận ra
thầy THÔNG LẠC liền. Thầy THÔNG LẠC thưa:
- Thưa Thầy!
Sau bao năm xa Thầy, giờ đây con đã có trí tuệ và nhập định một cách dễ dàng.
Sư phụ bảo:
- Chú nói
chú có trí tuệ, bây giờ tôi hỏi mà chú đáp được thì tôi công nhận.
Thầy THÔNG LẠC
nói:
- Thỉnh Thầy
hỏi.
Sư phụ đưa
ra một công án thiền.
- Có một thiền
sư hỏi thiền khách: “Phật là gì?”. Thiền khách đáp mãi mà Thiền sư không đồng
ý. Bây giờ tôi hỏi chú:
- Phật là
gì?
Như trái
banh nổi trên nước, đụng là xoay, đẩy là chạy, Thầy THÔNG LẠC liền đáp:
- Thầy có thấy
lá cây rung trước gió chăng?
Sư phụ gật đầu
và đưa ra một công án khác:
Có một Thiền
khách hỏi Động Sơn:
- Thế nào là
đại ý Phật pháp.
Động Sơn
đáp:
- Ba cân
gai.
Vậy tôi hỏi
chú:
- Ba cân gai
là gì?
Thầy THÔNG LẠC
đáp nhanh như gió không cần suy nghĩ:
•- Đạo không
lìa đời.
Sư phụ gật đầu
đọc một đoạn trong kinh LĂNG GIÀ để ấn khả chỗ đến của Thầy THÔNG LẠC, tức là
Thầy đã kiến tánh hoàn toàn. Theo Thiền Tông Kiến tánh thành Phật. Người thông
suốt 1.700 công án thiền là trí, chứ không còn là thức phàm phu nữa.
Sư phụ có bảo:
- Nếu chú có
ở gần tôi, chú đã đến chỗ này sớm hơn.
Thầy THÔNG LẠC
lại thưa:
- Thưa Thầy
cho phép con nhập NIẾT BÀN.
- Năm nay
chú bao nhiêu tuổi?
- Dạ, hơn
năm mươi tuổi!
- Chú, hãy
còn trẻ lắm, hãy ở gần tôi thêm lợi ích và trợ duyên tôi giáo hoá.
Duyên đã tạo
ra được, từ đây Thầy THÔNG LẠC bình thản ở lại và tìm mọi cách dựng lại Chánh
pháp của Phật. Sư phụ lại đưa cho Thầy nhiều kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông để
mở mang kiến thức.
Chỉ có người
tu chứng mới thống nhất Phật Giáo Hôm
nay ngày 11
tháng 3 Âm lịch năm 1987 Thầy THÔNG LẠC lại về thăm Sư phụ.
Sư phụ đang
ngồi trên võng nơi nhà mát phương trượng với vài ba Phật tử quen thuộc ngồi dưới
nền.
Thầy THÔNG LẠC
đến xá chào và ngồi xuống bên phải gần Sư phụ.
Các Phật tử
đi theo Thầy cũng ngồi xuống chỗ thích hợp. Trong buổi nói chuyện này, anh ĐỔ
ĐÌNH ĐỒNG đã trình nhiều ý kiến về Phật Giáo và Thiền Tông với Sư Phụ. Câu chuyện
ban đầu đi dần đến kinh nghiệm tu hành. Thầy THÔNG LẠC thưa:
Thưa thầy,
theo kinh nghiệm của con Người tu thiền phải xả bỏ tận gốc các kiến giải, tưởng
giải vì sự hiểu biết đó chỉ là hiểu biết ảo tưởng, chứ không phải sự hiểu biết
của tri kiến giải thoát. Như ngày trước con tu, không xem kinh sách gì, đến khi
con lên trình Thầy. Thầy hỏi là con bèn đáp theo TRI KIẾN TRỰC GIÁC, chứ không
do ý thức suy nghĩ phàm phu.
Hòa
Thượng THANH TỪ bảo:
- Không phải
thức như thế này. Có hai loại trí:
- Một là TRÍ
HỮU SƯ.
- Hai là TRÍ
VÔ SƯ.
Trí hữu sư
DO HỌC, còn trí vô sư do TÂM THANH TỊNH. Trí vô sư này mới chống lại với giặc
sanh tử được, còn trí hữu sư thì không chống được.
Trí tuệ là
cái chính yếu để phá trừ vô minh được giải thoát. Ngày xưa các Tỳ Kheo dù nhập
định đến 7, 8 ngày mà chưa thấy lý Tứ Đế vẫn không chứng A LA HÁN, vì trí hữu
sư vẫn là phàm phu trí.
Sau đó sư phụ
lại đề cập đến vấn đề NGUYÊN THỦY và ĐẠI THỪA đang là điều chú ý hiện
nay.
Thầy bảo
cũng là đạo Phật mà hai bên đi hai đường dường như trái hẳn nhau; không thông cảm,
không thống nhất gì được. Anh ĐỔ ĐÌNH ĐỒNG tỏ vẻ bi quan về việc thống nhất
dung hợp NGUYÊN THỦY và ĐẠI THỪA là điều quá khó khăn xưa nay không ai nghĩ tới.
Thầy THÔNG LẠC thưa:
- Thưa Thầy,
theo con thấy mình cứ biểu hiện bằng sự tu chứng của mình. Họ thấy được điều đó
rồi theo mình là tự nhiên thống nhất.
Sư phụ bảo:
- Được mấy
người tu chứng, và bao lâu mới tu chứng. Dĩ nhiên điều này là hay nhưng đòi hỏi
thời gian. Trong khi vấn đề hiện nay cấp bách là phải giải quyết liền. Có ba yếu
tố có thể giúp cho sự thống nhất:
- Một là biểu
hiện qua sự tu hành chân chánh của mình. Điều này đòi hỏi bên Đại Thừa phải
trong sáng, không để xen lẫn những hình thức mê tín, dị đoan trái tinh thần giải
thoát giác ngộ của đạo Phật, phải có những người tu hành có kết quả rõ rệt; phải
giữ gìn giới luật nghiêm túc; phải sợ hãi những lỗi lầm nhỏ nhặt trong giới luật.
- Hai là
Giáo lý Nguyên Thủy và Đại Thừa phải được dẹp bỏ những kiến giải tưởng giải làm
sai lệch ý Phật.
Nhất là kinh
sách Đại Thừa xây dựng thế giới siêu hình ảo tưởng, tạo thành một tôn giáo thần
quyền, chuyên cúng bái cầu siêu, cầu an tạo ra nhiều sự mê tín dị đoan lạc hậu
khiến Phật tử mất hết sức tự lực chỉ còn tha lực cầu cạnh quỷ thần.
Những
tư tưởng sai lệch của Đại Thừa như vậy cần phải dẹp bỏ thì mới có thể hòa hợp với
Nguyên Thủy Nam Tông.
- Ba là nghi
thức: Mình là người VIỆT NAM. Phật giáo là PHẬT GIÁO VIỆT NAM mà bên thì tụng
kinh bằng tiếng Pàli bên thì tụng bằng tiếng Hán, người VIỆT NAM nghe không hiểu
gì hết.
Ngừng một
chút Sư phụ tiếp:
- Nội cái việc
hai tạng kinh không đồng nhau là đã rắc rối rồi. Hoà Thượng MINH CHÂU chỉ nhận
tạng kinh Pàli là đạo Phật, còn cho kinh điển Đại Thừa là ngoại đạo.
Hòa Thượng
TRÍ TỊNH thì bảo ai không nhận kinh điển Đại thừa kẻ đó là ngoại đạo. Hai ông
Hòa Thượng lớn của giáo hội còn chưa thông cảm nhau, huống hồ người dưới.
Không thể
nào giáo lý Đại Thừa và Nguyên Thủy không trái nhau, hai giáo lý này nghĩa lý
cách xa nhau như một trời một vực, vì thế không thể thống nhất giáo lý được, mà
thống nhất giáo lý không được thì làm sao thống nhất hai hệ phái lớn này được,
Hai hệ phái lớn không thống nhất được thì các chi phái nhỏ nhánh khác thì dễ
dàng gì thống nhất họ được.
Anh ĐỔ ĐÌNH
ĐỒNG vui vẻ thưa:
- Con thấy
việc làm này rất khó, chỉ có những người tu chứng mới làm nổi như ý Thầy THÔNG
LẠC.
Thầy THÔNG LẠC
cũng đồng ý: Đây chỉ còn là cách duy nhất mà thôi.
Sư phụ bảo:
“Tôi chỉ gợi ý thôi, còn để cho mấy chú sau này làm”.
Nói xong Sư
phụ quay nhìn những đệ tử trẻ chúng tôi ngồi gần đấy.
Đã đến giờ
ngọ trai, trước khi lui ra Thầy THÔNG LẠC thưa:
- Con muốn
thưa chuyện riêng với Thầy, nếu được Thầy cho phép, con gặp Thầy vào buổi chiều.
- Ờ,
hai ba giờ chiều rồi tới.
Thầy Trò Cảm
Thông
Ba giờ chiều
Thầy THÔNG LẠC vào hầu chuyện với Sư phụ, ba Phật tử lúc sáng cùng đi theo.
THẦY THÔNG LẠC
thưa:
- Thưa Thầy,
từ ngày con lên núi trình Thầy, được Thầy ấn chứng, con có xin Thầy cho phép nhập
Niết Bàn, nhưng Thầy bảo con ở lại trợ duyên Thầy giáo hoá.
Vì thế con
không đi trước Thầy. Theo lời Thầy dạy, con tiếp tục nghiên cứu các kinh sách Đại
Thừa. Và con cũng tuỳ duyên tiếp người mới học.
Nhưng có những
lời đồn quanh quất nơi các Phật tử bên ngoài là đường lối con khác đường lối Thầy,
gây chia rẽ giữa con với Thầy. Thưa Thầy, con tuỳ căn cơ người mà lập hai pháp;
bên Thiền bên Định, bên thiền về quán để dạy người xả chướng ngại pháp.
Còn Thầy dạy
Bát Nhã cũng là quán, hoặc biết vọng không theo cũng là định, không có gì khác
nhau. Hôm rồi, có những Phật tử ở Cần Thơ đến nói con về việc này, rồi họ mời
con xuống dưới để giải thích.
Thưa thầy,
hôm nay con lên đây để trình việc này và cũng để xóa tan những dư luận bên
ngoài, có khi sẽ lan tới bên trong, xin Thầy cho vài huynh đệ về phụ với con
như để xác định lại rằng đường lối của con không khác đường lối của Thầy, làm
sáng tỏ chỗ dư luận như vậy.
Sư phụ bảo:
- Điều đáng
ngại là Thầy trò không thông cảm nhau, còn khi Thầy trò đã thông cảm với nhau
thì dư luận ở bên ngoài không quan trọng.
Việc đưa người
về đó không tiện vì hành chánh giấy tờ họ đã ổn định ở đây rồi, đưa qua đưa lại
mất công.
Khi nào thuận
tiện tôi sẽ đi thăm là được rồi.
Các đạo hữu
mừng rỡ.
- Sư ông đến
thăm còn gì quí bằng.
Như vậy xem
như chuyện Thầy THÔNG LẠC lên thăm đây là mỹ mãn.
Sư phụ lại
nói về tình hình Phật giáo hiện tại và bảo hiện nay nhà nước đang xây dựng một
viện nghiên cứu triết lý Phật Giáo, nhất là Phật Giáo Việt Nam thời Lý Trần.
Cư sĩ THIỆN
CHÍ thưa:
- Thưa sư
ông, nhiều người nói sư ông bác TỊNH ĐỘ?
Thầy cười bảo:
- Nếu chấp
nhận TỊNH ĐỘ thì đã tu TỊNH ĐỘ mất rồi! Tôi không nói là bác, nếu ai hỏi về Tịnh
Độ tôi chỉ giải thích niệm Phật đến chỗ nhất tâm.
Thầy THÔNG LẠC
thưa:
- Thưa Thầy,
ngoài miền Trung và miền Bắc có nơi nào tu thiền không?
Sư phụ bảo:
- Ở ngoài Bắc
nơi chùa HÒA GIAI có Sư cụ pháp chủ ĐỨC NHUẬN tu theo thiền TÀO ĐỘNG, lối phản
quang tự tánh. Còn ở miền Trung thì hoàn toàn không còn nữa: mặc dù trước đây
miền Trung là nơi truyền dạy thiền của hai ngài NGUYÊN THIỀU và LIỄU QUÁN.
Sư phụ nói
thêm:
- Mình nói
tu theo Đại Thừa, mà Thiền Tông là cốt tủy của Đại Thừa thì không chấp nhận. Hồi
tôi lập Tu Viện CHÂN KHÔNG để dạy thiền, cả giáo hội hồi đó không ai đồng ý cả,
chỉ có Hòa Thượng THIỆN HÒA vì tình cảm riêng mà ra thăm hỏi.
Trong khi thời
đó nhóm LƯƠNG SĨ HẰNG dạy thiền xuất hồn hoàn toàn sai với đạo Phật thì giáo hội
không nói được một lời nào để phê phán. Trái lại tôi dạy Thiền của đạo Phật thì
các vị lạnh lùng xa cách.
Bởi vậy việc
làm của tôi bao nhiêu năm qua là việc làm trong cô đơn yên lặng. PHẬT GIÁO VIỆT
NAM mình hầu hết 99 phần trăm là Tịnh Độ, chỉ bắt đầu từ khi Tu Viện CHÂN KHÔNG
xuất hiện thì mới có thiền. Cho nên tiếng nói của Thiền thật là bơ vơ lạc lõng.
- Hồi trước
kia trong một kỳ họp của giáo hội với tư cách là người trong ban hoằng pháp tôi
phát biểu chư tăng bấy giờ có nhiều người muốn chuyên tu.
Xin giáo hội
cho lập những TỊNH VIỆN, THIỀN VIỆN làm cơ sở cho chư Tăng chuyên tu ròng tu tập.
Kỳ đó thượng tọa THIỆN MINH làm chủ tọa, các vị bác ý kiến tôi không tiếc lời,
bác thẳng tay.
Thầy THÔNG LẠC
tiếp lời:
- Tuy Sư phụ
nói như vậy, nhưng riêng chúng con lại thấy khác.
Có thể đối với
giáo hội trước kia, Sư phụ là người cô độc đi con đường của mình, nhưng từ mọi
miền đất nước, từ nhiều nơi trên thế giới, với những người thiết tha tu tập mà
không thỏa mãn nơi sinh hoạt của giáo hội, đã hướng về Sư phụ như ngọn hải đăng
rực sáng cao cả soi phá bóng đêm âm u trên biển khổ trầm luân sinh tử, giúp họ
vượt qua đêm dài tăm tối si mê, đưa họ trở lại lối tu cốt tuỷ của Đạo Phật.
Sư phụ không
cô đơn vì pháp âm của Người vang mãi trong lòng muôn người chân thành vì đạo
pháp; Sư phụ không cô đơn vì con đường Người vạch lối có vô số người bước theo
và tìm thấy nơi đây bình an và hạnh phúc; Sư phụ không cô đơn vì hàng đệ tử
chúng con vững bước theo Người, nối tiếp sứ mạng của Người làm trong sáng đạo
Phật khỏi những sai lầm cực đoan và mê tín.
Vì thế mà hiện
giờ Sư phụ không còn cô đơn nữa, con đường của Sư phụ đi là con đường sáng chói
huy hoàng mà chúng con là những người thực hiện ánh sáng ấy.
Giai đoạn
chuyển biến Phật Giáo từ Tịnh tới Thiền
Hôm thứ bảy
ngày mùng 7 tháng 3 Âm Lịch vừa rồi có Hòa Thượng MINH CHÂU cùng với ông ĐỨC
PHƯƠNG, VÕ ĐÌNH CƯỜNG, TỐNG HỒ CẦM, TỐNG ANH NGHỊ là những người chịu trách nhiệm
tờ báo Giác Ngộ, tờ báo Phật giáo hiện nay, đến THIỀN VIỆN thăm Sư phụ.
Những vị kia
hầu hết đều quen thuộc đối với Phật giáo, riêng ông ĐỨC PHƯƠNG là chủ bút tờ
báo GIÁC NGỘ, tờ báo Phật giáo hiện nay đến Thiền Viện thăm Sư phụ.
Chúng tôi đã
đãi các vị bữa cơm trưa với các món ăn tự sản xuất được như: mít kho, đào
chiên, canh rau dền. Sau buổi nghỉ trưa ngồi nói chuyện với Sư phụ ông ĐỨC
PHƯƠNG nhận xét:
- Tôi nghe
Thầy là người tu theo ĐẠI THỪA nhưng khi đọc cuốn “CHÌA KHÓA HỌC PHẬT”. Tôi thấy
Thầy nói về đức Phật rất thực tế không có vẻ gì huyền thoại”.
Ý ông nói là
Nguyên Thủy mà tránh dùng chữ quá rõ.
Sư Phụ đáp:
- Tôi không
để ý đến những khía cạnh khác, với tôi đạo Phật tùy bệnh cho thuốc.
Ông ĐỨC
PHƯƠNG:
- Biết bệnh
biết thuốc cũng khó chứ. Thật ra Sư phụ muốn gạt vấn đề Nguyên Thủy và Đại Thừa
qua một bên chia đôi hai nhánh làm gì, tùy bệnh thô thì nói pháp thô, bệnh tế
thì nói pháp tế, với người chưa tỉnh thì nói pháp giải thoát, với người tỉnh rồi
thì nói lý tưởng độ sanh.
Các ông khẩn
khoản mời Sư phụ viết bài cho báo GIÁC NGỘ.
Sư phụ có vẻ
từ chối nói rằng:
- Tôi là người
nhiệt tình, cũng muốn nói lên những điều cần phải nói nhưng những điều tôi đã
nói lại có người hiểu lầm. Riết rồi tôi chỉ thích coi ngó làm ruộng làm rẫy mà
thôi.
Ông TỐNG HỒ
CẦM lại khuyến khích
- Thầy là
con người văn hoá, công việc văn hoá là thích hợp chứ.
Ông VÕ ĐÌNH
CƯỜNG lại thêm:
Thôi, Thầy
viết cho bài trong đặc san Phật đản kỳ này đi. Có lẽ trong nội bộ Phật Giáo hiểu
lầm Thầy thôi.
Thiền tông
không làm chủ Sanh, Già, Bệnh, Chết
Đang thuật
chuyện Thầy THÔNG LẠC tôi lại nhắc đến các ông, bây giờ giải thích sự kiện hiểu
lầm, tôi lại phải nhắc chuyện nhà Tổ.
Khi cất xong
nhà Tổ. Sư phụ nói chuyện với tứ chúng. Trong bài nói, Sư phụ có dẫn thiền sư
THƯỜNG CHIẾU.
THẦN NGHI hỏi
thầy là THƯỜNG CHIẾU:
- Mọi người
đến thời tiết này, chỗ ngộ này, vì sao đều theo thế tục mà chết?
THƯỜNG CHIẾU
bảo:
- Ngươi nhớ
được mấy người không theo thế tục mà chết?
- Một mình tổ
ĐẠT MA.
THƯỜNG CHIẾU
hỏi:
- Có những
gì đặc biệt?
THẦN NGHI
thưa:
- Một mình đạp
sóng trở về Tây.
- Núi Hùng
Nhĩ là nhà ai? (ý nói Tổ Đạt Ma cũng chết chôn trong núi này).
THẦN NGHI
thưa:
- Chỉ là chỗ
chôn chiếc giày trong hòm mà thôi.
- Lừa người
lấy lợi, đứng đầu là THẦN NGHI (ý chê THẦN NGHI đi ngõ khác với Thiền).
- Đâu thể
nói TỐNG VÂN truyền dối việc vua TRANG ĐẾ quật mồ thì sao?
THƯỜNG CHIẾU
bảo:
- Một con
chó lớn sủa láo, mấy con chó nhỏ sủa theo.
- Hòa thượng
cũng tùy tục chăng?
- Tùy tục.
- Vì sao như
thế?
- Ấy là cùng
người đồng chết, THẦN NGHI chợt tỉnh ngộ, lễ bái thưa:
- Con đã hiểu
lầm hết rồi.
Người theo
Thiền tông cốt ngộ được pháp thân bất sanh bất diệt, còn cái thân tứ đại này
theo luật vô thường phải có ngày tan hoại. Phật cũng thế.
Không làm
chuyện lạ bày trò sống lâu với thân tứ đại này chỉ vì dạy người giác ngộ pháp
thân vượt ngoài sanh tử.
THẦN NGHI
chưa ngộ pháp thân nên chỉ nhìn nơi chuyện lạ ca ngợi tổ ĐẠT MA đã tịch chôn
trong tháp ở núi Hùng Nhĩ rồi mà còn sống lại ra khỏi tháp đi về Ấn Độ, gặp sứ
giả TỐNG VÂN trên núi Thống lãnh TỐNG VÂN về thuật lại, vua TRANG ĐẾ quật tháp
chỉ còn một chiếc hài.
Thiền sư THƯỜNG
CHIẾU đã quở trách những người đến với đạo Phật chỉ để ý chuyện lạ, không sáng
lý tánh qua câu: “Một con chó lớn sủa mấy con chó nhỏ sủa theo”.
Sư phụ dẫn
chuyện này để khẳng định đường đi của Phật giáo không chú trọng chuyện lạ, vì
như thế có thể chìm vào dị đoan, mê tín.
Nhưng không
biết trong những người đứng nghe lúc đó nghe thế nào mà hiểu lầm rằng con chó sủa
láo chính là công kích các hệ phái khác.
Trước khi ra
về, các ông đã xin những cuốn sách Sư phụ đã trước tác căn bản như “Mới vào cổng
chùa”, “Yếu chỉ thiền tông”, “Hé mở cửa giải thoát”.
Sư phụ nói
tiếp với Thầy THÔNG LẠC và các phật tử:
- Tất cả những
việc tôi âm thầm làm từ trước trong hoàn cảnh không thích hợp như khôi phục Thiền
Tông, sau giải phóng thì tổ chức sinh hoạt lao động trong thiền viện, bây giờ
những việc đó bắt đầu có cơ duyên thích hợp, từ lâu yên lặng, bây giờ mới nói
lên tiếng nói...
Huynh đệ tu
viện Thường Chiếu thưa hỏi
Vì Thầy
THÔNG LẠC đến sáng mai mới về, nên tối nay huynh đệ chúng tôi khẩn khoản thỉnh
Thầy hoan hỷ cho chúng tôi tham vấn. Sau giờ xả thiền chúng tôi trải chiếu, bày
trà nơi gian nhà trống và mời Thầy đến.
Thầy THÔNG
QUÁN đã thay mặt huynh đệ hỏi trước.
- Thưa Thầy
con nghe Thầy có dạy các pháp tu định và tu quán, các pháp này thế nào?
Thầy THÔNG LẠC
bảo:
- Hai phép
tu định và tu quán không khác với nhau đường lối của Thầy viện chủ chỉ là tuỳ
căn cơ người học mà Thầy thiên về định hay về quán thôi (Thầy THÔNG LẠC có thói
quen xưng “Thầy” gọi chúng tôi là “huynh đệ” có lẽ vì Thầy thấy thân mật, chúng
tôi cũng thấy cởi mở).
-Với người
thông minh học nhiều – Thầy tiếp – Thầy cho họ pháp quán xả tâm để đi suốt con
đường tri kiến giải thoát tận đỉnh. Ngay tri kiến giải thoát tận đỉnh là tâm bất
động tức là Bất Động Tâm Định. Bất Động Tâm Định là mục đích của đạo Phật, người
tu tập tới đây muốn nhập định nào cũng dễ dàng và thực hiện Tam Minh cũng không
còn khó khăn.
Muốn
thực hiện là được liền, tức là phải dùng pháp hướng tâm. Cho nên trong kinh thường
dạy: “Hướng tâm đến Túc Mạng Minh; hướng tâm đến Thiên nhãn Minh; hướng tâm đến
Lậu Tận Minh v.v...”.
Nhưng các
huynh đệ hãy lưu ý: muốn đạt được tâm bất động như vậy mà không tu tập Tứ Niệm
Xứ thì không bao giờ đạt được.
Muốn tu tập
Tứ Niệm Xứ sung mãn mà không giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh thì Tứ Niệm Xứ chỉ
là một pháp ức chế tâm, khiến cho hành giả rơi vào các loại thiền tưởng, có khi
bị Tẩu Hỏa Nhập Ma.
Tùy căn cơ của
mỗi người, đôi khi Thầy cho họ một câu hỏi khó giải để diệt ý thức phân biệt,
nhờ đó nghi tình sẽ phát khởi, khi nghi tình phát khởi thì cái nghi chôn sâu
vào tâm họ, chờ duyên khai phát cái nghi đó.
Cái nghi
bùng vỡ là pháp tưởng hiện tiền, 1.700 công án họ đều phá sạch, không một cái
nào dấu họ được. Nhưng cái khuyết ở trường hợp này là trên đường đi họ dễ sanh
ngã mạn, nói năng to lớn.
Người thầy
phải biết trị cái bệnh này biết “thằng này nói dóc”, chặn lại và sách tấn họ vượt
qua tiếp, khéo chuyển kiến giải, tưởng giải thành tri kiến giải thoát.
Đa số người
kiến giải, tưởng giải ở phương tiện này đều phải hàm dưỡng nhiếp tâm, an trú
tâm và sức tỉnh giác rất cao để bất động tâm chứng ngộ chân lí.
Còn với người
trì độn ít học, Thầy chỉ họ tu Định Niệm Hơi Thở, từ đề mục thứ nhất cho tới đề
mục thứ 19. Nếu họ vào định thật sự rồi, tức là vào chỗ tâm thanh thản, an lạc
và vô sự. Đó là chân lí thứ ba của đạo Phật trong Tứ Diệu Đế.
Cái khuyết ở
trường hợp này là họ dễ chìm trong si định, cái định si mê ham ngủ, lười biếng.
Nếu người thầy
khéo gỡ mối đưa họ qua khỏi trạng thái si mê này thì họ chứng đạo. Trường hợp
người đi qua phương tiện tu Định Niệm Hơi Thở này, khi đạt được đề mục thứ 19
thì cũng là chứng ngộ luôn.
Thầy THÔNG
VÂN thưa:
- Trong kinh
pháp Bảo Đàn. Lục Tổ Huệ Năng dạy: “Niệm khởi liền giác, không sợ vọng khởi, chỉ
là đừng lầm vọng tưởng”. Lời dạy này có khác với Thầy chăng thưa Thầy?
Thầy THÔNG LẠC
bảo:
- Cái diệt
niệm của Tiểu Thừa là diệt niệm ác, còn niệm thiện không diệt, cho nên Tứ Chánh
Cần dạy: “Ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp”, trong kinh
Pháp Cú dạy: “Chư ác mạc tác chúng thiện phụng hành” hoặc “Thấy lỗi mình không
thấy lỗi người”, để vào Bất Động Tâm Định.
Cho nên khác
với cái giác niệm của Đại Thừa. Với Đại Thừa niệm khởi mình chỉ biết thì nó
không còn là vọng tưởng nữa. Tuy nhiên trong Thiếu Thất Lục Môn Tổ ĐẠT MA có dạy
Lý nhập và Hạnh nhập.
Người thượng
căn khi nghe một câu liền ngộ và từ đó sống luôn với chỗ ngộ của mình đây gọi
là lý nhập nhưng với người kém hơn phải nhờ Hạnh nhập, tức là tu định một thời
gian mới có thể thấy tánh.
LỤC TỔ có bảo
“Niệm trước không sanh là tâm, niệm sau không diệt là Phật”, “Trước niệm không
sanh là Phật, sau niệm không thêm cái diệt chỗ đó là tâm”. Nếu giữ được như vậy
lâu ngày thì thành viên mãn.
Đó là theo
pháp môn ảo tưởng của Đại Thừa, Thiền Tông nên chỉ nói suông, chứ không thể thực
hiện được.
Cho nên Tổ
sư và các đệ tử nhiều đời nhiều kiếp chỉ chết cứng trong những kiến tưởng giải
này không lối thoát, vì thế không ai làm chủ sanh, già, bệnh, chết được.
Còn người nhập
định như gốc cây cục đá, chẳng đem lợi ích gì cho mình, cho người.
Những
loại thiền định ngôn ngữ suông này nó đã diệt nền đạo đức nhân bản – nhân quả của
Phật giáo xuống tận đáy vực thẳm.
Vì thế, hỏi
đến nền đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình khổ người và khổ tất
cả chúng sanh thì từ thiền sư Tổ cho đến các thiền sư con đều không ai biết, họ
chỉ biết kiến tánh thành Phật.
Phật của họ
là Phật phạm giới, tự tại vô ngại đói ăn khát uống mệt ngủ, nên ăn uống phi thời
có sao đâu.
Họ cho rằng
dâm dục cũng đâu có mất Phật tánh, vì tánh Phật xưa nay đều có sẵn.
Tất cả chúng
sanh đều có Phật Tánh. Uống rượu ăn thịt như TẾ CÔNG, TUỆ TRUNG cũng đâu có mất
Phật tánh.
- Thưa Thầy,
có ý kiến Tổ sư thiền là đến siêu phương tiện, không qua thứ lớp định huệ đồng
thời. Còn Thầy chia hai phương tiện như vậy có hợp chăng?
- Đây chỉ là
phương tiện ban đầu của Thầy để đưa người mới học đến cửa. Thật ra không phải
căn cơ người nào cũng giống nhau.
Người thượng
thượng căn một lần nghe là đốn chứng viên mãn. Người thượng căn có đốn ngộ cũng
phải tiệm tu. Còn người trung, hạ căn phải có phương tiện mới xả tâm rốt ráo.
Như
ngài KHUÊ PHONG, tuy đã ngộ, nhưng Ngài tự thấy mình còn ái kiến nên bỏ vào núi
tập định ngót mười năm mới sạch.
Thầy THÔNG
QUÁN lại thưa:
- Thưa Thầy
có dùng lối chỉ thẳng như các vị thiền sư không?
Thầy THÔNG LẠC
bảo:
- Có, có khi
qua cái dụng để chỉ cái thể, có khi đốn cơ gạt bỏ tri thức khiến họ ngộ nhập.
Nhưng trường hợp này ít ỏi.
Một Thầy mới
đến thiền viện thưa:
- Thưa Thầy
con dùng lối sổ tức để tập tu ban đầu, nhưng trong mười hơi đang đếm vẫn còn vọng
niệm xen lẫn.
Thầy THÔNG LẠC
bảo:
- Vậy là còn
thiếu phước nên tu thập thiện, sư đệ hãy phát nguyện tu thập thiện, bắt đầu khởi
tu tập ngăn ác diệt ác pháp và sinh thiện tăng trưởng thiện pháp như trong kinh
Thập Thiện dạy.
Khi tu tập
pháp này thuần thục rồi, thì sư đệ mới tiếp tục tu 19 đề mục Định Niệm Hơi Thở
thì sẽ không còn vọng tưởng xen lẫn vào nữa.
- Thầy THÔNG
QUÁN lại hỏi:
- Nếu không
tỉnh giác có bị các pháp cột trói không thưa Thầy?
- Không tỉnh
giác là bị các ác pháp cột trói. Cho nên tu tập cần phải tu tập Chánh Niệm Tỉnh
Giác. Chánh Niệm Tỉnh Giác có bốn giai đoạn tu tập:
1- Giai đoạn
thứ nhất: Đi kinh hành bình thường, chỉ 10 bước đứng lại tác ý một lần: “Tôi đi
kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”. Khi tác ý xong câu này rồi tiếp tục đi.
Đi và đứng lại tác ý như vậy đúng 30’ mới xả nghỉ.
2- Giai đoạn
thứ hai: Đi kinh hành bình thường, chỉ 10 bước đứng lại tác ý: “Hít vô tôi biết
tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra một lần”.
Sau khi tác
ý xong rồi thở ra hít vô đúng 5 hơi thở ngưng lại thì tác ý: “Tôi đi kinh hành
tôi biết tôi đi kinh hành”.
Khi đi xong
10 bước đứng lại tác ý thở như trên. Tu tập như vậy đúng 30’ rồi xả nghỉ.
3- Giai đoạn
thứ ba: Đi kinh hành bình thường, chỉ 10 bước ngồi xuống kiết già hay bán già
lưng thẳng, mắt nhìn chóp mũi rồi tác ý: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra
tôi biết tôi thở ra”.
Sau khi tác
ý xong rồi thở ra, hít vô đúng 5 hơi thở, ngưng lại đứng dậy tác ý: “Tôi đi
kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành”.
Khi đi xong
10 bước đứng lại rồi ngồi xuống tác ý thở như trên. Tu tập như vậy đúng 30’ rồi
xả nghỉ.
4- Giai đoạn
thứ tư: Đi kinh hành theo pháp Thân Hành Niệm, pháp này phải được trực tiếp với
người có kinh nghiệm dạy, chứ đừng tự mình tu tập thì dễ bị sai lệch rất nguy
hiểm.
Pháp này mỗi
hành động trong thân đều phải tác ý trước rồi mới hành động sau, có nghĩa là lệnh
đâu thì hành động phải theo đó mà thi hành.
Thầy THÔNG
QUÁN hỏi:
- Nếu không
tỉnh giác cũng không bị vọng tưởng có bị các pháp cột trói không thưa Thầy?
- Nếu không
tỉnh giác cũng không bị vọng tưởng có bị các pháp cột trói không.
Đó là đã rơi
vào không như cây đá rồi. Người tu hành mà để thành cây đá thì có ích lợi gì.
Câu hỏi của sư đệ không bao giờ có trường hợp xảy ra như vậy.
Không tỉnh
giác tức là mê. Mê có hai ngả:
- Ngả thứ nhất
là bị vọng tưởng.
- Ngả thứ
hai là bị hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không.
Hai ngả này
xác định khi mê thì không chạy đâu khỏi, không rơi ngả này thì phải lọt ngả
khác, cho nên không bị các pháp cột trói là không có.
Không tỉnh
giác cũng không bị vọng tưởng là bị hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không rồi.
Đã bị hôn trầm, thùy miên, vô ký, ngoan không, còn tỉnh đâu mà các pháp cột
trói. Có đúng như vậy không các huynh đệ.
- Cho nên
không bị vọng tưởng lôi kéo thì ngay đó là tỉnh giác rồi, Có tỉnh giác thì các
pháp làm sao trói buộc? Câu hỏi của sư đệ vô lý, chỉ đặt ra hỏi cho có hỏi chứ
không có nghĩa lý gì cả.
Thưa các
huynh đệ! Muốn thưa hỏi tu hành hay thưa hỏi để nói chuyện tào lao, người tu
hành không phí thời gian vô ích. Sau này sư đệ muốn thưa hỏi thì phải thưa hỏi
những câu hỏi có ý nghĩa trong vấn đề tu tập và cũng không nên hỏi những câu hỏi
ngoài vấn đề.
Đưa cái ly
ra thầy THÔNG QUÁN lại hỏi tiếp:
- Bạch Thầy,
nếu bảo thấy cái ly là chạy theo vật, còn nói không thấy cái ly là phủ nhận sự
hiện hữu vậy phải làm sao?
- Thấy cái
ly mà chạy theo vật là phàm phu, không thấy cái ly là ngoại đạo chấp không (Đại
Thừa Bát Nhã).
Thầy THÔNG
QUÁN lại hỏi tiếp:
- Bạch Thầy
các thiền sư ngồi thiền biết thân hay không biết thân?
- Thiền định
có nhiều cấp độ nhập định, nên các trạng thái định cũng có rất nhiều. Thầy xin
kể cho các sư đệ nghe Thiền định được phân làm hai loại:
1- Loại nhập
định còn biết thân gọi là TÂM ĐỊNH.
2- Loại nhập
định không biết thân gọi là THÂN ĐỊNH.
Tâm định gồm
có những loại định như sau:
1- Định
Chánh Niệm Tỉnh Giác
2- Định Vô Lậu
3- Định Niệm
Hơi Thở
4- Định Sáng
Suốt
5- Định Tư Cụ
(Tứ Chánh Cần)
6- Định Tứ
Niệm Xứ
7- Định Thân
Hành Niệm
8- Định Từ
Tâm
9- Định Bi
Tâm
10- Định Hỷ
Tâm
11- Định Xả
Tâm
12- Định Tứ
Bất Hoại Tịnh
13- Định Bất
Động Tâm
14- Định Vô
tướng Tâm
15- Định Diệt
Tầm Giữ Tứ
16- Định Sơ
Thiền
Thân định
gồm có những loại định như sau:
1- Định Nhị
Thiền
2- Định Tam
Thiền
3- Định Tứ
Thiền
4- Định
Không Vô Biện Xứ Tưởng
5- Định Thức
Vô Biên Xứ Tưởng
6- Định Vô Sở
Hữu Xứ Tưởng
7- Định Phi
Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
8- Định Diệt
Thọ Tưởng
Còn riêng
các loại thiền định khác của pháp Yoga, của Mật Tông, của Minh Sát Tuệ, của Thiền
Đông Độ, của kinh sách phát triển Đại Thừa, của Pháp Vô Vi xuất hồn ông Tám,
ông Tư, của Tiên Đạo Lão Tử, Trang Tử v.v... đều thuộc thiền định tưởng, không
được ghép vào thiền của Phật giáo, vì những loại thiền định này không ly dục ly
ác pháp, không thực hiện được Tứ Thần Túc và Tam Minh, nó thuộc về thiền định của
ngoại đạo.
Thầy THÔNG
QUÁN lại hỏi tiếp:
- Bạch Thầy,
thiền sư khi không tiếp duyên, không khởi trí dụng, có thấy các pháp là huyễn
hóa không?
- Khi không
khởi trí dụng thì có pháp nào nói huyễn nói chơn?
Thầy THÔNG
QUÁN lại thưa:
- Bạch Thầy,
từ lâu chúng con có những thắc mắc về Thầy, nay xin Thầy hoan hỷ giải bày cho
chúng con hết mọi nghi ngờ.
Bạch Thầy lần
trước con có nghe Thầy nói vấn đề tu do chim thú cúng dường, lại nghe Thầy xin
Thầy viện chủ nhập NIẾT BÀN. Thầy còn thấy NIẾT BÀN nào để nhập chăng?
Thầy THÔNG LẠC
thong thả bảo:
- Trong kinh
Bát Thành có dạy tám pháp độc nhất, người tu hành chỉ cần ôm một pháp tu tập
cũng đi đến cứu cánh giải thoát hoàn toàn. Tám pháp ấy gồm có:
1- Từ tâm
2- Bi tâm
3- Hỷ tâm
4- Xả Tâm
5- Sơ thiền
6- Nhị thiền
7- Tam thiền
8- Tứ thiền
Người tu tập
Từ tâm, tâm luôn luôn lúc nào cũng biết yêu thương, chứ không biết ghét giận hờn
ai cả. Họ thực hiện đức hiếu sinh, không phải họ chỉ thương mọi người, mọi loài
động vật mà còn thương tất cả cỏ cây sông núi, không khí nước uống v.v...
Như ông Phú
Lâu Na, Người đã thực hiện Từ tâm đến rốt ráo hiện tiền, nên chứng quả A La Hán
cũng do từ pháp Từ Tâm Tứ Vô Lượng.
Một hôm ông
Phú Lâu Na xin Phật đi giáo hóa ở một nước xa xôi. Đức Phật bảo:
- Dân ở đó
hung dữ lắm, họ sẽ chửi mắng con đó.
Ông trả lời:
- Dân ở đó họ
còn thương con, họ chưa lấy cây đánh con.
- Họ sẽ lấy
cây đánh con.
- Dân ở đó họ
còn thương con, họ lấy cây đánh con, chứ chưa lấy dao giết con.
- Họ sẽ lấy
dao giết con.
- Dân ở đó họ
còn thương con, họ lấy dao giết con, vì con còn mang thân này là còn khổ đau, mất
thân này con vào Niết Bàn, không còn đau khổ nữa.
- Thôi! Con
cứ đi, đi!
Người tu Từ
tâm như vậy từ trường thiện phóng xuất nơi họ ở, do đó tất cả chúng sanh đều sống
bên họ không sợ hãi. Người tu hành có từ tâm như vậy, nên mới có những loài vượn
hái trái cây cúng dường.
Phật và những
đạo sĩ tu khổ hạnh trong rừng thường xảy ra những trường hợp này.
Còn ở đây
khi huynh đệ muốn cho chim thú cúng dường thì chim thú không cúng dường. Chim
thú cúng dường là do từ tâm. Có đúng như vậy không các huynh đệ.
Thầy
xin lập lại câu hỏi thứ hai của Thầy THÔNG QUÁN:
- Thầy còn
thấy NIẾT BÀN nào để nhập chăng?
- Có lẽ lo
tu thiền tri vọng nên sư đệ không học bài pháp Tứ Diệu Đế sao? Vậy Diệt đế là
gì?
Diệt đế
không phải là Niết Bàn sao. Phật dạy: Người tu hành trước tiên phải giác ngộ
chân lí rồi sau mới hộ trì và bảo vệ chân lí, nếu không ngộ được chân lí thì biết
cái gì mà hộ trì, bảo vệ, Thiền Đông Độ không dạy sư đệ KIẾN TÁNH rồi khởi tu
sao?
Năm anh em
Kiều Trần Như nghe xong bài pháp này liền chứng quả A La Hán. Sư đệ không nhớ:
Thiền Tông dạy: “KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT”. Vậy Phật là gì? Không phải Niết Bàn
sao?
Nói nhập Niết
Bàn là danh từ nói chứ từ khi kiến tánh thành Phật là đã nhập Niết Bàn chứ còn
chỗ nào nữa.
Cho nên người
tu hành chứng đạo thì thân tâm đều luôn ở trong Niết Bàn. Thân tâm đều luôn ở
trong Niết Bàn nên gọi là HỮU DƯ Niết Bàn, còn người tu chứng thân đã chết thì
gọi là Vô Dư Niết Bàn.
Vậy sư đệ
nói: Thầy còn thấy NIẾT BÀN nào để nhập chăng?
Tội nghiệp
sư đệ quá, sư đệ đừng lấy những câu phá chấp của kinh sách Đại Thừa mà hiểu lầm
rằng còn thấy Niết Bàn là chưa biết Niết Bàn.
Sư đệ đưa
câu hỏi này ra chứng tỏ sư đệ không có nghiên cứu kinh sách, chỉ đọc một vài cuốn
kinh Đại Thừa, giống như người trì độn công phu, tu tập trong ngu si.
Nói chân lí
tức là nói một sự thật, một sự thật thì người chưa tu cũng phải nhận ra, nếu người
chưa tu không nhận ra được thì đó đâu phải là chân lí.
Như Phật
Tánh đâu phải là chân lí, người tu gần chết mà còn chưa kiến tánh được huống là
người chưa tu thì biết gì là Phật Tánh.
Cho nên Phật
Tánh không phải là chân lí. Còn Diệt Đế là chân lí. Tại sao dám khẳng định Diệt
Đế là chân lí?
- Thứ nhất
kinh thường nhắc đến bốn chân lí của Phật giáo.
- Thứ hai là
bài kinh xác định là diệt hết lòng ham muốn.
- Thứ ba là
chỉ định trạng thái hết lòng ham muốn, đó là tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
- Thứ tư là
trạng thái tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.
Bốn điều nêu
trên đây nếu người nào chưa tu cũng nhận ra được, đó là một trạng thái thật sự
của con người, chứ không phải là cảnh giới bên ngoài, là con người không ai là
không nhận ra được Chỉ có sư đệ THÔNG QUÁN hiểu lầm tưởng Niết Bàn mà Thầy
THÔNG LẠC nói nhập là cảnh giới bên ngoài như cõi Cực Lạc hay cõi Thiên Đàng.
Nghe đến chỗ
này các huynh đệ đều cởi mở, vui vẻ.
Sáng hôm sau
Thầy THÔNG LẠC đã chào Sư phụ và từ giã huynh đệ ra về.
Chúng tôi
trân trọng xá Thầy, một đại sư huynh đã cho chúng tôi tấm gương tu hành lớn
lao.
Chúng tôi
cũng nguyện theo tấm gương tinh tấn của Thầy vững bước đi theo đường mà Sư phụ
đã vạch lối, con đường thiền giáo đồng hành mà trong đó việc tìm lại căn bản
giáo lý Đức Phật là điều quan trọng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét