06-VỊ TRỤ TRÌ CHÙA AM ĐỜI
THỨ NĂM
(Trưởng Lão Thích Thông Lạc,
trích Lịch Sử Chùa Am, TG.2010, tr.37-128)
Nguồn: Sách: Lịch Sử Chùa
Am
Tên của Ngài là LÊ NGỌC
AN, pháp danh là THÍCH THÔNG LẠC sinh năm 1928, là người con thứ tư. Lúc Ngài
là sinh viên tại Sài Gòn làm thẻ sinh viên và căn cước đề năm sinh 1935, nhờ đó
tuổi học trò của Ngài được kéo dài để hoạt động cách mạng trong giới học sinh,
sinh viên dễ dàng hơn.
Thừa kế sự nghiệp cách mạng
của cha ông, thầy Thông Lạc biến CHÙA AM thành một cơ sở in ấn tài liệu tuyên
truyền học tập cách mạng, phát động phong trào yêu nước rộng rãi trong quần
chúng, biến thành những cuộc biểu tình chống chế độ độc tài phát xít gia đình
trị Ngô Ðình Diệm.
Những cuộc xuống đường biểu
tình chống chế độ độc tài phát xít gia đình trị Ngô Ðình Diệm làm cho tề ấp lúc
bấy giờ run sợ khiếp đảm, làm hạn chế bớt những tay sai, chó săn, chim mồi của
bè đảng Ngô Ðình Diệm.
Ngụy quyền ở Trảng Bàng
nghi ngờ CHÙA AM làm Cộng sản nên đưa lính đến bao vây chùa bắt thầy Thông Lạc,
giam cầm, đánh đập, điều tra đủ mọi cực hình, nào là cho điện giật thầy chết
lên chết xuống, nào là treo ngược đầu đổ nước xà phòng, nào là đấm đá, giậm đạp
trên ngực, khắp nơi trên cơ thể bầm tím, v.v...
Thầy không đi nổi, chúng
lôi thầy bỏ vào khu nhà lao, nhờ anh em tù nhân trong phòng giam mang vào chăm
sóc cứu chữa xoa bóp dầu.
Giặc điều tra cách gì thì
thầy Thông Lạc chỉ một mực trả lời không biết, không làm Cộng sản chỉ biết ở
chùa tụng kinh niệm Phật mà thôi. Giặc hỏi: - Biết Tám Giò, Chín Ðặng không? -
Không quen biết.
Những cán bộ điều tra của
ngụy quyền nói: - Không biết đánh cho biết, không tội đánh cho có tội. Những trận
đòn như vậy thầy Thông Lạc chết lên, chết xuống nhưng thầy Thông Lạc rất gan dạ,
chỉ trả lời là không biết.
Giặc nhốt thầy Thông Lạc
ba tháng tại Tây Ninh để điều tra. Sau đó Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam chùa Ấn
Quang đến lãnh thầy ra.
Sau khi được trả tự do trở
về thầy bám trụ CHÙA AM tiếp tục làm cách mạng, vì thầy được anh em cán bộ cách
mạng giáo dục chỉ có con đường cách mạng mới giải phóng dân tộc, mới lật đổ
chánh quyền tay sai ngụy quân, ngụy quyền và đuổi giặc Pháp ra khỏi bờ cõi.
Làm cách mạng rất gian khổ,
ngồi tù ra khám đó là lẽ thường mà người làm cách mạng nào tiếp cận với giặc
thì ít ai tránh khỏi, cho nên làm cách mạng xem sự sống chết và tù tội như chỉ
mành treo chuông.
Ở giai đoạn chế độ gia
đình trị Ngô Ðình Diệm chúng ta nên tham khảo qua những trang sử CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ XÂM LƯỢC (1954 – 1975): “Việt Nam với vị trí chiến lược quan trọng ở
Ðông Nam Á, đi tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc và phong trào chủ
nghĩa xã hội ở khu vực.
Vì thế Mỹ quyết tâm đè bẹp
cách mạng Việt Nam. Sau khi Pháp thất bại, Mỹ nhảy vào thay thế ở Ðông Dương. Mỹ
ra sức phá hiệp định Giơnevơ, phá sự nghiệp thống nhất toàn lãnh thổ Việt
Nam.
Chiếm đóng và biến miền
Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ, thành căn cứ quân sự để ngăn chặn phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc, ngăn chặn và tấn công chủ nghĩa xã hội ở
Ðông Nam Á trở thành một trong các khu vực thực hiện chiến lược toàn cầu của Mỹ.
Ðể đạt mục đích trên, Mỹ
đã tiến hành xâm lược miền Nam Việt Nam bằng chủ nghĩa thực dân mới, tiêu diệt
lực lượng cách mạng miền Nam, gấp rút chuẩn bị tấn công miền Bắc. Do đó Mỹ xây
dựng bộ máy ngụy quyền, đứng đầu là Ngô Ðình Diệm...
Chánh quyền Diệm tự
mạo nhận là “CÁCH MẠNG QUỐC GIA” với chiêu bài “ÐẢ THỰC – BÀI PHONG” để che dấu
giả tâm bán nước.
Trên thực tế chánh quyền
Ngô Ðình Diệm đã thực hiện chánh sách tố cộng, diệt cộng để đàn áp tiêu diệt những
người yêu nước kháng chiến chống giặc Pháp gây nên những cuộc tàn sát đẫm máu ở
miền Nam Việt Nam”.
“Từ cuối năm 1954 đến
tháng 7 năm 1955 phong trào hòa bình của giới trí thức sinh viên Sài Gòn – Chợ
Lớn, trong số đó có sinh viên Lê Ngọc An cùng một số sinh viên khác làm nòng cốt
được cách mạng giáo dục chỉ đạo cho cuộc đấu tranh nên mạnh dạn góp ý cùng các
bạn sinh viên khác hãy đứng lên đòi hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất theo
hiệp định Giơneovơ, đòi tự do dân chủ, cải thiện đời sống, đòi cứu tế những nạn
nhân xung đột trong các cuộc xung đột giữa chánh quyền Ngô Ðình Diệm với các
tôn giáo khác, chống khủng bố v.v...”.
“Ngày 1 tháng 5 năm 1950,
15 vạn công nhân Sài Gòn – Chợ Lớn mít tinh kỷ niệm ngày Quốc Tế Lao Ðộng. Ác
liệt nhất là cuộc đấu tranh chống các chiến dịch “TỐ CỘNG – DIỆT CỘNG”, bảo vệ
những người yêu nước kháng chiến cũ. Từ trong các trại tập trung, khu dinh điền,
ấp chiến lược, chống Mỹ Diệm bùng nổ lớn mạnh.
Phong trào đấu tranh chánh
trị lôi cuốn hàng triệu người bao gồm các tôn giáo: Phật Giáo, Cao Ðài, Hòa Hảo,
đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào miền Bắc di cư vào Nam”.
“Trong cuộc đấu
tranh có sự phối hợp giữa nhân dân thành thị và nhân dân nông thôn rất chặt chẽ,
nhiều hình thức phong phú. Kết quả thời kỳ đấu tranh chánh trị là cách mạng miền
Nam đứng vững, phục hồi lại, từng bước phát triển để chuẩn bị lực lượng vũ
trang cho thời kỳ chiến tranh cách mạng”.
“Thời kỳ gay gắt nhất là từ
năm 1957 trở đi, Mỹ và chánh quyền Ngô Ðình Diệm như điên khùng chuyển sang chế
độ độc tài phát xít, đàn áp công khai tiến hành một cuộc chiến tranh đơn phương
để chống lại đồng bào miền Nam”.
Chánh quyền Ngô Ðình Diệm
tiến hành những cuộc càn quét có quy mô lớn liên tục dồn dân vào ấp chiến lược,
mà chúng gọi là khu DINH ÐIỀN chớ kỳ thực đó là những trại tập trung dân để
nhân dân lìa cách mạng theo chiến lược“CÁ LÌA NƯỚC”.
“Chiến lược này hòng tiêu
diệt Cộng Sản. Tháng 12 năm 1957 chúng đầu độc chết hàng ngàn người ở nhà tù
Phú Lợi. Chúng còn ban hành luật 10/59, lập các tòa án quân sự đặc biệt để chém
giết khắp miền Nam”.
Thời gian này CHÙA AM là một
trong những nơi bảo vệ anh em cách mạng vừa làm việc và vừa ẩn náu trong ấp Gia
Lâm, xã Gia Lộc, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.
Tết Mậu Thân CHÙA AM chỉ
còn một đống gạch vụn, chiến tranh đã tàn phá không những CHÙA AM mà cả xóm ấp
Bàu Trâm đều bị điêu tàn, nhà cửa của nhân dân đều bị đốt cháy tan nát trong
bom đạn chiến tranh, mọi người đều chạy tản cư tứ tán. Nhưng vị trụ trì CHÙA AM
không hề sợ hãi, trở về bám trụ nơi CHÙA AM.
Ngài cất một cái miếu nhỏ
để làm ám hiệu. Khi anh em du kích đến miếu thấy có nhang đốt là biết ngay
không có giặc kích, thì đi vào ấp chiến lược truy quét tề ấp, còn thấy không có
nhang đốt là biết có giặc kích nên rút lui không vào ấp chiến lược.
Việc đốt hương hay không đốt
hương, vị trụ trì đều giao lại cho người em trai của thầy là Lê Văn Ân. Nhờ có
thông tin liên lạc như vậy nên anh em du kích cách mạng biết được tình hình của
giặc, nên vào phá ấp chiến lược, kêu gọi nhân dân trở về làng xóm cũ rất dễ
dàng.
Khi nhân dân trở về làng
xóm cũ đông đủ, vị trụ trì CHÙA AM cất một cái một am tranh lá nhỏ để làm cơ sở
cách mạng liên lạc thông tin và tiếp tế lương thực, nhất là tổ chức mua súng đạn
của giặc, tiếp tế cho anh em du kích.
Ðêm đêm anh em du kích ra
bắn phá đồn giặc, khiến giặc sống bất an, nhờ có anh em du kích diệt sạch tề ấp,
khiến chúng không quản lý nhân dân được, nhờ đó mới mở rộng vùng cách mạng bao
vây sát thị trấn Trảng Bàng; nhờ đó cách mạng ngày càng lớn mạnh cho đến ngày đất
nước hoàn toàn giải phóng.
Muốn biết rõ âm mưu của Mỹ
trong giai đoạn này chúng ta hãy đọc lại một đoạn sử cận đại: “Ðể thực hiện chiến
tranh đặc biệt chống lại phong trào giải phóng dân tộc do Ðảng Cộng Sản lãnh đạo.
Mỹ vạch ra một kế hoạch
Tây Lơ sau này được bổ sung kế hoạch Giơn Sơn – Mắc Na Ma Ra gồm ba giai đoạn:
Mỹ dự tính thực hiện kế hoạch này là 18 tháng là kết thúc chiến tranh. Khởi sự
kế hoạch đó là xây ấp chiến lược dồn dân để cô lập lực lượng cách mạng miền
Nam.
Mỹ ngụy xây dựng 17.000 ấp
chiến lược, biến toàn miền Nam thành một trại tập trung khổng lồ. Mỹ rải chất độc
hóa học xuống nhiều vùng dân cư để buộc nhân dân vào ấp chiến lược.
1- Bình định miền Nam.
2- Tăng cường phá hoại miền
Bắc.
3- Tấn công thôn tính miền
Bắc.
Sự kỳ thị tôn giáo của chế
độ Ngô Ðình Diệm giữa Phật giáo và Thiên Chúa giáo nổ ra khiến cho phe quân đội
nhảy vào tham dự.
Tháng 11 năm 1963 Mỹ và
nhóm quân đội làm cuộc đảo chánh lật đổ Ngô Ðình Diệm. Ngô Ðình Diệm và Ngô
Ðình Nhu bị giết chết. Sự sụp đổ chế độ độc tài Ngô Ðình Diệm mở đầu cho sự khủng
hoảng của chánh quyền Sài Gòn không bao giờ khắc phục được nữa.
“Ngày 20 tháng 8 năm 1964,
30 vạn người bao vây dinh Ðộc lập đòi Nguyễn Khánh từ chức, ngày 20 tháng 9 năm
1964. 10 vạn công nhân bãi công ở Sài Gòn – Gia Ðịnh phản đối chế độ độc tài
Nguyễn Khánh.
Ngày 24 tháng 8 năm 1964,
3 vạn công nhân Ðà Nẵng bãi thị tuần hành. Tháng 12 năm 1964 nhân dân Huế, Ðà Nẵng,
Ðà Lạt biểu tình chống chánh phủ Trần Văn Hương.
Tham gia các cuộc đấu
tranh chánh trị có nông dân, công nhân, nhân dân đô thị, học sinh, sinh viên,
trí thức đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế dân chủ. Năm 1963, có 23 triệu lượt
người đấu tranh.
Ðấu tranh chánh trị làm
tan rã từng mảnh chánh quyền bù nhìn của Mỹ, làm thất bại những cuộc càn quét,
làm tan rã ấp chiến lược của Mỹ.
Nhờ phối hợp đấu tranh
chánh trị với đấu tranh quân sự nên tiêu diệt lực lượng quân sự Mỹ và làm cho lực
lượng các chánh quyền tay sai của Mỹ rệu rã.
Ấp chiến lược là chiến thuật
chiến lược trong chiến tranh đặc biệt của Mỹ, quần chúng nổi dậy đấu tranh chánh
trị phá thế kìm kẹp của giặc một cách dễ dàng.
Nhờ đấu tranh chánh trị và
quân sự biết kết hợp nên làm cho 8.000 ấp chiến lược (85% số ấp) bị phá. Ðể cứu
vãn tình thế ngày 1 tháng 11 năm 1963 Mỹ đảo chánh giết chết Diệm – Nhu.
Dương Văn Minh lên cầm quyền
nhưng bị Nguyễn Khánh lật đổ. Trong giai đoạn này các cuộc đảo chánh tranh
giành quyền lực của các phe phái trong chánh quyền ngụy đã đẩy chánh quyền này
vào cuộc khủng hoảng triền miên.
Chúng ta thấy rõ Nguyễn
Khánh lật đổ Dương Văn Minh lên làm thủ tướng, Dương Văn Minh lên làm Quốc Trưởng,
Sau đó Nguyễn Khánh làm Quốc trưởng, Trần Văn Hương làm Thủ tướng. Rồi Phan Khắc
Sửu lại thay Nguyễn Khánh làm Quốc trưởng.
Ðầu năm 1965 Nguyễn Khánh,
Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi cùng nhau lật đổ Phan Khắc Sửu, đưa Phan Huy
Quát lên làm Thủ tướng, trong giai đoạn này ngụy quyền Sài Gòn càng suy nhược
và khủng hoảng nên năm 1964 thế lực chánh trị và quân sự của cách mạng rộng lớn
và vũ khí đầy đủ vùng lên phá sạch các ấp chiến lược trong miền Nam Việt Nam và
đập tan nát ngụy quân ngụy quyền.”
Vào những năm 1970 – 1975
chiến tranh ngút ngàn, Thầy trụ trì còn một người mẹ già, một người anh và hai
người em - một trai, một gái.
Người anh lớn có gia đình ở
Thành phố Sài Gòn, còn người em trai kế cũng có gia đình ở Trảng Bàng. Riêng thầy
trụ trì và người em gái đưa mẹ già về nuôi dưỡng bằng sức lao động của mình, cả
ba mẹ con chỉ quanh quẩn trong một ngôi nhà nhỏ ở ấp Lò Rèn thuộc vùng chu vi
Cao Ðài quản trị, ở đó mới tránh được bom đạn của Mỹ và ngụy quyền.
Ấp Lò Rèn bây giờ là ấp Lộc
Du, xã Gia Lộc, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.
Mọi người dân ở trong vùng
chiến tranh, ban ngày về bám trụ đất đai và làm tai mắt cho cách mạng, khi trời
sắp tối đều phải rời khỏi nơi gia đình mình, gồng gánh đồ đạc, dắt con cái vào
vùng chu vi của Cao Ðài để tránh bom đạn.
CHÙA AM nằm trong vùng đất
cách mạng, hàng rào CHÙA AM là hàng rào chiến đấu của du kích quân và CHÙA AM
cũng là điểm nóng mà giặc Pháp và ngụy quân nên chúng thường xuyên pháo bắn
CHÙA AM, lúc nào chúng cũng có thể bắt và bắn phá chùa vì chúng cho đó là nơi Cộng
Sản ẩn náu.
Thầy trụ trì vẫn biết điều
này nhưng vẫn bám sát anh em du kích, thường làm nhiệm vụ báo tin tức giặc cho
anh em biết để đề phòng và vào phá ấp chiến lược giải phóng đồng bào trở về nhà
cửa ruộng vườn đất đai cũ.
Ở ấp Lò Rèn, là nơi ở đỡ
tránh bom đạn Mỹ Ngụy, ngày ngày em gái thầy ra chợ Trảng Bàng mua bán kim chỉ
nhưng thấy không đủ sống nên mới mua dao rựa ở các lò rèn rồi đem bán sỉ tại
các chợ ở thành phố Sài Gòn để phụ vào nuôi sống ba mẹ con, nhưng cũng không đủ
do đó thầy trụ trì học nghề rèn làm dao rựa để tự sản xuất, nhờ đó thu nhập mới
đủ sống.
Những năm tháng vất vả và
gian khổ này làm sao quên được người em thân thương của mình phải lăn lộn dưới
đường tên mũi đạn thập tử nhất sinh.
Trong những năm tháng đó rất
là gian khổ, tù tội và sinh mạng như chỉ mành treo chuông. Nhưng vì nghĩ đến cuộc
Cách mạng giải phóng dân tộc thầy không thể bỏ anh em du kích được mà đi nên
bám trụ CHÙA AM sống chết có nhau.
Nhất là khi được tin
Lê Văn Tân, em thầy hy sinh trong trận Tua Hai Tây Ninh. Mẹ khóc mỗi khi thắp
hương trên bàn thờ, lòng thương em xót xa vô cùng nên quyết làm hết sức mình để
bảo vệ cơ sở để anh em du kích an tâm chiến đấu.
Đường đi buôn bán từ Trảng
Bàng về Thành Phố Sài Gòn là một con đường nguy hiểm nhất. Trên đường biết bao
nhiêu là mô đất, mỗi mô đất có mô thì đặt mìn, có mô thì không. Tất cả mìn đặt
trên đường là của cách mạng, nếu xe nào vô ý cán phải mìn thì cả người và xe chỉ
còn những mảnh sắt vụn và một đống thịt tay chân văng tứ tung.
Vì cuộc sống để cùng ba mẹ
con nương tựa có nhau nên em thầy phải xông pha đi tìm sự sống. Thỉnh thoảng
người anh và em trai cũng có về thăm nhưng chỉ trong giây lát rồi lại về lo gia
đình, chỉ còn lại ba mẹ con.
Thấy mẹ không vui thỉnh
thoảng thầy nhắc lại chuyện năm xưa để làm cho mẹ vui.
Tháng 7 năm 1975 đất nước
giải phóng xong, bom đạn không còn cày xới trên mảnh đất quê hương, thầy trở về
sửa sang lại mảnh đất chôn nhau cắt rốn, nơi CHÙA AM cổ xưa yêu dấu mà tổ tiên
để lại, một di tích khó quên, cho nên con cháu không có quyền làm mất gốc, phải
trùng tu lại để đánh dấu những trang sử yêu nước của Tổ tiên bằng công lao, mồ
hôi nước mắt, bằng xương máu cùng với mọi người dân trong cả nước mới có ngày
nay đất nước độc lập hoàn toàn chủ quyền về tay nhân dân Việt Nam.
Bởi vậy là con cháu không
thể bỏ qua được việc trùng tu. Mẹ mất, Thầy xin một đứa cháu trai về nuôi và đặt
tên là MẬT HẠNH. Mật Hạnh được dạy tu hành xả tâm, nên lúc nào cũng thương yêu
và tha thứ khi có ai nói trái ý nghịch lòng, vì thế gương mặt Mật Hạnh lúc nào
cũng hiền từ, hiện ra sự an lạc và vui vẻ.
Việc trùng tu đầu tiên thầy
trụ trì cất lại ngôi CHÙA AM tre lá đơn sơ chỉ thờ 3 tượng Phật. Tượng thứ nhất
là tượng đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi giữa, tượng thứ hai đứng là tượng Ca Diếp
bên tay trái và tượng thứ ba đứng là tượng A NAN bên tay mặt.
Hiện giờ CHÙA AM vẫn còn
giữ nguyên vẹn như hồi mới cất, vách liếp, cột bằng cây tầm vông, lợp tôn,
v.v... Tuy đã cũ rêu phong, ẩm mốc, cột xù xì và vách liếp đã mục nhưng chưa
nát vẫn còn che mưa, che nắng được. Ngôi chùa bằng trúc tre làm sao giữ gìn bền
lâu được.
Cho nên Thầy Thông Lạc quyết
tâm sẽ trùng tu CHÙA AM bằng gạch ngói như trước kia do ông thân thầy đã xây dựng.
Từng cục gạch, từng viên đá, từng bao xi măng do công sức của riêng ông thân thầy
dành dụm từng đồng từng cắc chớ không bao giờ kêu gọi một người phật tử nào
đóng góp phụ với mình.
Sự quyết tâm ấy ông thân
thầy đã dựng nên ngôi CHÙA AM sạch đẹp và ngôi chùa này được duy trì trên 10
năm thì chiến tranh bùng nổ. Giặc Pháp đã dùng xe tăng tàn phá ngôi CHÙA AM, chỉ
còn một đống gạch vụn.
Sau khi đất nước giải
phóng giặc Pháp ra khỏi biên cương, thầy Thông Lạc là một tu sĩ nên một đồng
cũng không có, nhờ gia đình cô TỪ NGUYỆN cúng dường cho thầy 20 đồng, lúc bấy
giờ 20 đồng có giá trị rất lớn.
Khi có tiền thầy Thông Lạc
trở về bắt đầu cất lại CHÙA AM bằng tầm vông trúc tre, vì đó là những cây nhà
lá vườn nên không tốn tiền mua.
Ông thân thầy Thông Lạc
qua phần nhưng lời di chúc giao lại việc trùng tu ngôi chùa cho thầy, nên lúc
nào thầy Thông Lạc cũng nhớ lời di chúc đó: “Sau khi Thầy mất, Thầy chỉ tin nơi
con, con là người đủ sức, đủ khả năng trùng tu lại ngôi chùa, con nhớ cố gắng đừng
để phụ lòng mong mỏi của ông bà nơi chín suối”.
Nhớ lời di chúc đó thầy
Thông Lạc luôn luôn canh cánh bên lòng quyết tâm trùng tu lại ngôi chùa bằng gạch
ngói để không phụ lòng mong đợi của ông thân thầy.
Việc thứ hai là trùng tu
tinh thần chánh pháp của Phật, thầy Thông Lạc viết sách đạo đức nhân bản – nhân
quả và giảng dạy đúng những lời dạy của đức PHẬT THÍCH CA MÂU NI, còn những lời
giảng dạy nào không đúng của đức PHẬT THÍCH CA MÂU NI thì Thầy vạch trần bộ mặt
thật của nó để mọi người biết rõ nó là tà pháp ngoại đạo đã xen vào kinh sách
Phật giáo.
Thường các sư thầy không
rõ những kinh sách ngoại đạo nên lấy đó giảng dạy cho phật tử.
Cho nên việc vạch trần bộ
mặt thật của kinh sách ngoại đạo là giúp cho phật tử hiểu rõ pháp nào đúng,
pháp nào sai để quý phật tử tránh xa và không ủng hộ cúng dường, những sư thầy
đang hành tà giáo ngoại đạo.
Nhờ đó tà pháp không phát
triển và vì vậy chánh pháp của Phật mới dựng lại và làm sáng chói con đường tu
tập của Phật giáo.
Nhất là thầy Thông Lạc dạy
đâu là chánh tín và đâu là tà tín. Chánh tín nghĩa là gì? Tà tín nghĩa là gì?
Chánh tín chỉ cho mọi người
biết thực hành đời sống có đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình,
khổ người và chúng sinh, luôn luôn giữ gìn tâm BẤT ÐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC VÀ
VÔ SỰ bằng pháp môn NHƯ LÝ TÁC Ý để tâm luôn luôn ly dục ly bất thiện pháp.
Nhờ đó mới thấy được
tâm thanh thản, an lạc và vô sự. Chính thấy được tâm như vậy mới là giải thoát
của Phật giáo quý vị có biết không?
Tà tín có nghĩa là những
phật tử mê tín chuyên cầu cúng, tụng kinh, niệm Phật, niệm chú, cầu siêu, cầu
an, xin xăm, bói quẻ, cúng sao, giải hạn, đốt tiền vàng mã, v.v... Những việc
làm nhảm nhí vô ích như vậy thường làm hao tài tốn của của những phật tử. Vậy
mà quý phật tử cứ nghe đâu làm vậy không chịu suy tư việc làm đó đúng hay sai.
Bởi số phật tử đông đảo
trùng trùng điệp điệp đang theo Phật giáo mà chúng tôi đã chứng kiến những buổi
lễ lớn của Phật giáo, phật tử về chùa đông như kiến cỏ, nhưng từ lâu bị nhồi
nhét trong đầu những điều sai Phật pháp nên chỉ còn biết cúng bái, tụng kinh,
niệm chú của kinh sách phát triển. Phật tử cho đó là việc làm đúng, cho đó là sự
tu tập của mình theo Phật giáo.
Bởi làm một việc sai, mù
quáng, mê tín không đúng chánh pháp của Phật mà không biết. Thật là tội nghiệp
bị ảnh hưởng Phật giáo mê tín ngu muội của Trung Quốc, cứ cho là xưa bày nay
làm theo, thật là đáng thương.
Phật tử còn vô minh nhiều
lắm vì quý thầy dạy sao họ làm theo như vậy, chớ họ đâu có dám nói quý sư thầy
sai. Họ chỉ biết tin, biết làm nên sư thầy dạy gì họ cũng tin.
Bởi vậy phần đông phật tử
làm sao am tường lời Phật dạy nên thiếu trí tuệ, không cân nhắc, không chịu khó
tư duy, cứ nghe sư thầy dạy đâu làm đấy, như những người mù rờ voi. Thật là
đáng thương nhưng cũng rất tội nghiệp.
Vì họ không sáng suốt nên
mới để giáo pháp mê tín tràn lan khắp nước, lâu ngày không dứt bỏ nên nó đã trở
thành một truyền thống của dân tộc.
Nếu ngay từ lúc đầu khi
kinh sách Phật giáo Trung Quốc này mới truyền vào Việt Nam, mọi người ai cũng đồng
lòng chặn đứng nó lại bằng cách không làm theo những điều tà giáo mê tín thì
làm gì nó truyền vào đất nước chúng ta được, phải không thưa quý vị?
Trong thời đại khoa học,
kiến thức của con người được nâng cao nhờ sự học rộng hiểu xa nên không dễ gì
làm cho họ tin theo, duy chỉ có những người ít học mới biến mình thành những
người mù quáng, dễ tin, dễ làm theo.
Tà tín là tin có cõi Cực Lạc
Tây Phương, là tin có linh hồn người chết, là tin có thế giới siêu hình, là tin
có tà ma, quỷ quái, là tin có địa ngục, ngạ quỷ, là tin có Thần Thánh, Tiên Phật,
là tin có Ngọc Hoàng Thượng Ðế, Chúa Trời, là tin có Thập Ðịa Diêm Vương, Thủy
phủ, Thủy tề, Long Vương, Hà Bá, Bà Thủy, v.v…
Những điều tà tín này là
mê tín. Những điều tà tín này không phải do lời dạy của đức PHẬT THÍCH CA MÂU
NI mà do những lời dạy của các Tổ ngoại đạo Bà La Môn, Ðại Thừa, Thiền Tông.
Các ngài đã biến Phật giáo thành một Phật giáo mê tín của Trung Quốc hoàn toàn
chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo, Lão giáo.
Nho giáo và Lão giáo là
hai tôn giáo lớn của người Trung Quốc. Nho giáo do Khổng Tử chủ trương thuyết
TAM CANG và NGŨ THƯỜNG, còn Lão giáo do Lão Tử chủ trương thuyết VÔ VI.
Hai nhà đại hiền triết tư
tưởng lớn này của Trung Quốc đã triển khai nền văn hóa đạo đức của người Trung
Quốc, mà từ xưa đến nay người Trung Quốc vẫn một lòng tôn kính xem hai vị này
như những bậc thầy của mọi người trong thiên hạ.
Các nhà sư Phật giáo
Trung Quốc chịu ảnh hưởng văn hóa tư tưởng triết học của Nho giáo nên từ sự hiểu
biết đó đã chuyển thành nền văn hóa đạo đức Phật giáo Trung Quốc cho tốt đẹp
hơn.
Nhưng không ngờ chịu ảnh
hưởng cúng tế của Nho giáo mà các nhà sư Phật giáo Trung Quốc lại biến nền văn
hóa đạo đức Phật giáo Trung Quốc thành một nền văn hóa đạo đức Phật giáo mê
tín.
Dòng văn hóa đạo đức Phật
giáo mê tín đó được các nhà sư đặt tên là Tịnh Ðộ Tông và biên soạn thêm những
bộ kinh sách phát triển thường ca ngợi và khuyến khích tín đồ tu tập pháp môn
niệm Phật A Di Ðà, vì pháp môn đó hợp với thời đại mạt pháp.
Lại nữa, có một số nhà sư
Trung Quốc chịu ảnh hưởng văn hóa đạo đức tư tưởng của Lão Tử. Họ triển khai
thành một Phật giáo Trung Quốc tuyệt vời hơn bất cứ một Phật giáo nào ở trong
nước cũng như ở các nước ngoài.
Nhưng không ngờ ảnh hưởng
VÔ VI của Lão giáo mà các nhà sư Phật giáo Trung Quốc lại biến nền văn hóa đạo
đức của Phật giáo Trung Quốc thành một nền văn hóa triết học TÁNH KHÔNG.
Từ khi triết học tánh
không ra đời đã đốn sạch những tư tưởng triết học khác trong nền văn hóa Trung
Quốc. Với tư tưởng này các nhà sư Trung Quốc rất hãnh diện tự đặt cho nó cái
tên là pháp môn Tối Thượng Thừa.
Pháp môn Tối Thượng Thừa tức
là Phật giáo Thiền Tông Trung Quốc bây giờ. Người am tường Phật giáo Trung Quốc
thì thật là xót xa và đau buồn, do kiến giải của các nhà sư Trung Quốc thiếu
sáng suốt đã làm mất gốc Phật giáo tại xứ này. Như vậy Phật giáo Trung Quốc
chia làm hai dòng văn hóa tư tưởng:
1- Dòng văn hóa Phật giáo
TỊNH ÐỘ TÔNG.
2- Dòng văn hóa Phật giáo
THIỀN TÔNG.
Còn Phật giáo chánh tông
thì không còn nữa, nên người Trung Quốc cho đến hiện giờ muốn hiểu Phật giáo chỉ
nghiên cứu hai dòng tư tưởng này thôi.
Hai nền văn hóa đạo đức Phật
giáo ấy lại được truyền sang qua Việt Nam, chư tăng Việt Nam tiếp thu mà không
dám chỉnh sửa, cứ y khuôn mà truyền bá, mãi cho đến đời Trần Nhân Tông mới có
thay đổi chút ít bằng sự pha trộn Thiền – Tịnh của Trung Quốc, rồi cho đó là Phật
giáo thiền Tông Việt Nam.
Chúng tôi vạch ra đây
không phải chỉ trích ai cả mà để cùng nhau đóng góùp ý kiến để chúng ta thấy
cái sai cái đúng của Phật giáo Việt Nam hiện giờ.
Là người Việt Nam chúng ta
hãy cùng chung nhau xây dựng một nền văn hóa đạo đức Phật giáo tinh ròng của
người Việt Nam, chớ không vay mượn một Phật giáo của nước nào cả, chỉ dựa vào lời
dạy nguyên thủy của đức Phật mà biên soạn và giảng dạy giúp cho mọi người hiểu
về Phật giáo một cách rõ ràng, phân biệt được Phật giáo nào đúng và Phật giáo
nào sai.
CHÙA AM đi vào con đường
chánh Phật giáo nên không còn có khói hương mê tín, dị đoan, lạc hậu như CHÙA
AM ngày xưa. Nhờ có lời dạy trên đây CHÙA AM không còn đi vào nếp cũ hướng dẫn
tín đồ theo lối mòn của các sư thầy tổ xưa.
CHÙA AM ngày nay không tụng
kinh, không làm ma chay siêu độ theo kiểu mê tín, mà làm ma chay theo tinh thần
khoa học mang đầy đủ lòng biết ơn sâu xa của những người còn sống đối với những
người thân đã mất “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
Nên việc làm ma chay rất
đơn giản, thiết thực cụ thể ít tốn kém. Ðám tang chỉ dạy cách thức ma chay theo
tinh thần thực tế của Phật Giáo Việt Nam không chịu ảnh hưởng của một tôn giáo
nước nào cả.
Nhất là không theo tinh thần
tư tưởng “Văn Công Thọ Mai” của Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử Trung Quốc cúng bái,
tế lễ, kèn trống rập rình, rồi lại còn đàn ca xướng hát theo giọng ê, a tụng niệm
giọng cao giọng thấp của các tăng, ni và phật tử.
Một đám tang là một sự mất
mát, có gì vui đâu mà lại đàn ca trống phách. Thật là một việc làm sai hết sức
sai sao mọi người không suy tư, nghĩ lại xem, làm như vậy có đúng không?
Sao mọi người không nghĩ lại
xem làm đám tang mà như làm một buổi lễ đăng quang hay ít cũng là một đám cúng
đình. Có đúng như vậy không quý vị?
Ðám tang có vui gì mà trống
kèn đàn ca xướng hát rập rình, lại còn mướn thêm giàn nhạc Tây phương kèn trống
inh ỏi làng trên xóm dưới đều hay biết.
Sao người ta làm ma chay
mà không chịu suy nghĩ, cứ bắt chước thấy ai làm sao mình làm vậy.
Thời đại chúng ta không
cho phép làm một điều thiếu suy nghĩ. Khi làm một điều gì thì cần phải suy tư
cân nhắc kỹ lưỡng rồi mới làm:
- Thứ nhất làm sẽ không thất
bại.
- Thứ hai người có trí họ
cho chúng ta không phải là kẻ hủ lậu, dốt nát, ngu si, chỉ biết bắt chước làm
theo người xưa.
- Thứ ba có trí sáng suốt
phân biệt làm ma chay như thế nào đúng và như thế nào sai. Ðúng có lợi ích gì?
Và sai có hại gì?
Làm ma chay theo
đúng tinh thần Phật giáo thì chúng ta hãy nghiên cứu lại tài liệu cách tẩm liệm
làm ma chay của CHÙA AM hướng dẫn, vì cách thức làm ma chay của CHÙA AM là làm
theo những lời dạy của đức Phật.
Làm ma chay theo lời dạy của
đức Phật trong tinh thần dân tộc Việt Nam là tránh xa những hủ tục, mê tín, lạc
hậu, đó là làm giảm bớt những sự hao tốn nhảm nhí rất nhiều.
Còn làm một đám tang theo
kinh sách phát triển thì phải chịu hao tốn tiền bạc cúng dường trai tăng, vì
chư tăng phát triển thường hay bày vẽ theo kiến giải mê tín cúng kiếng, tụng
kinh cầu siêu quá nhiều.
Tính từ ngày chết cho đến
ngày làm tuần mãn tang phải hao tốn hằng triệu bạc cho các thầy ngồi trong mát
hưởng bát vàng bằng tiền của mồ hôi nước mắt của đàn na thí chủ làm ra.
Người phật tử không sáng
suốt không dựa vào những lời dạy của đức Phật trong kinh sách nguyên thủy mà cứ
nghe theo các thầy phát triển đã làm hao tốn tiền của mà còn bị người ta cho rằng
là những hạng người mê tín, lạc hậu, ngu si.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét