05-TRỞ VỀ ĐẠO PHẬT
PHẦN II:
TRỞ VỀ ĐẠO PHẬT
LỜI NÓI ĐẦU
“Trở Về Đạo
Phật” là một tập sách mỏng do Bác sĩ Trí và Đức Tâm ghi lại trong một cuộn băng
cassette đã được ghi âm buổi tọa đàm của Trưởng Lão Thích Thông Lạc với quý tu
sĩ Tăng, Ni Đại Thừa, Thiền Tông và Phật tử Thành phố Hồ Chí Minh tại Tu Viện
Chơn Như.
“Trở Về Đạo
Phật” là một lời khuyên chân thành với tâm tha thiết đầy lòng yêu thương của
Trưởng Lão Thích Thông Lạc với những tu sĩ Tăng, Ni và Phật tử đang tu hành
theo Phật giáo.
Thấy những lời
khuyên quá thành thật này đối với mọi người có lợi ích rất lớn, nhất
là cho những hàng tu sĩ Tăng, Ni và Phật tử có quyết tâm hành trì để tìm cầu sự
giải thoát ngay liền.
“Trở Về Đạo
Phật” lời nói nhẹ nhàng, so sánh cụ thể, làm sáng tỏ thiền định của Phật giáo
nguyên thủy và thiền định của kinh sách phát triển Đại Thừa, khiến cho những ai
có kinh nghiệm tu hành thì biết ngay mình đang tu tập những pháp môn của ngoại
đạo mà từ lâu cứ ngỡ rằng mình tu hành theo chánh Phật giáo.
Sự đau lòng
nhất của chúng ta là bị kinh sách phát triển lừa đảo mà không biết. Cho nên khi
nghe được những lời khuyên dạy này chúng ta như người mù được sáng mắt, như người
đang nằm mộng choàng tỉnh dậy.
Nhờ đọc tập
sách “Trở Về Đạo Phật” chúng tôi thấy con đường Phật giáo mở bày một lộ trình
thẳng tấp dẫn đến cứu cánh rõ ràng, cụ thể, chứ không còn mơ hồ, trừu tượng, ảo
giác như các pháp môn của kinh sách phát triển.
Thấy sự ích
lợi của những lời khuyên nhủ như vậy, nên chúng tôi xin phép Trưởng Lão cho in
tập sách này để mọi người cùng đọc; cùng được lợi ích như nhau mà không còn sợ
bị giáo pháp ngoại đạo lừa đảo nữa. Trước kia tập sách này được in chung trong
Giáo Án Tu Tập Cho Người Cư Sĩ tập 3.
Với tập sách
mỏng này chúng tôi ước nguyện cho mọi người khi được đọc, nó sẽ mang lại cho tu
sĩ Tăng, Ni và quý Phật tử một niềm vui an lạc với tâm hồn thanh thản và vô sự.
Từ đây, đạo
Phật chỉ còn có một con đường duy nhất, đó là con đường Giới, Định, Tuệ mà Trưởng
Lão Thích Thông Lạc đã khai quang con đường ấy cho chúng ta và cho bao thế hệ ở
ngày mai khi đến với đạo Phật không còn ngỡ ngàng, lo lắng sai pháp như Thầy Tổ
của chúng ta trước kia nữa.
Thay mặt mọi
người, chúng tôi xin thành thật biết ơn Bác sĩ Trí và Đức Tâm, những Người đã
ghi chép lại lời dạy này của Trưởng Lão Thích Thông Lạc.
Nếu trong tập
sách này có điều chi sơ sót xin quý vị vui lòng góp ý và bỏ qua cho. Chân thành
cảm ơn quý vị.
Chúc quý vị
may mắn trên bước đường tu học sớm thành đạt viên mãn.
Kính ghi
Trưởng Lão
Thích Thông Lạc
Trở về Đạo
Phật
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và Phật tử! Quí vị đã không ngại đường xá xa xôi, dành những
thì giờ quí báu, cùng bỏ những công ăn việc làm để huân tập về Tu Viện Chơn Như
với lòng chân thành ngưỡng mộ sự tu hành của chúng tôi và cũng để tìm hiểu pháp
môn tu hành của chúng tôi có kết quả như thế nào?
Và kết quả ấy
có lợi ích gì trong đời sống thiết thực của con người hay không? Sự giải thoát
kết quả mà chúng tôi đã tu tập có phải là sự giải thoát của Đạo Phật hay không?
Để trả lời
những câu hỏi thắc mắc trên đây của quí vị, tức là chúng tôi kể lại sự tu hành
của chúng tôi và chính cũng là giải được mối nghi ngờ trong tâm của quí vị.
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và Phật tử! Từ lâu quí vị đã hướng thân tâm của mình về
Phật pháp, từng đi chùa lễ Phật, tụng kinh, bái sám; từng đi nghe thuyết giảng
kinh sách; từng để tâm nghiên cứu học hỏi giáo pháp của đức Phật, với một lòng
chân thành.
Nhưng quí vị
rất đau lòng và nghi ngờ Phật pháp vì tận mắt quí vị đã chứng kiến mắt thấy,
tai nghe, quí vị đã nghe các bậc chân tu mà quí vị đã từng gặp trong cuộc đời của
mình.
Các vị
ấy là những bậc Thầy Tổ của quí vị, đã từng hướng dẫn cho quí vị biết Phật pháp,
biết tu học Phật pháp, đã từng chỉ dạy cho quí vị biết cách thức tu tập như: niệm
Phật, niệm chú, tụng kinh, ăn chay, ngồi thiền, làm các điều lành và còn dạy
cho quí vị biết thiền quán xả tâm, tham thiền nhập định theo thiền Đông Độ, thiền
Yoga v.v...
Mỗi vị đều
đem hết khả năng tu học của mình chỉ dạy cho quí vị để mong quí vị đạt được sự
giải thoát. Nhưng khi ra đi vào cõi Niết bàn, các vị ấy không giải thoát, phải
chịu đau khổ trên giường bệnh, nhức nhối khổ sở trong các cơn đau, mệt mỏi thở
chẳng ra hơi, hay lẫn lộn quên trước, quên sau khi tuổi già sức yếu.
Suốt cuộc đời
quí vị Phật tử đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh trạng đau lòng của những
Thầy Tổ mình, giải thoát đâu không thấy, chỉ thấy toàn một sự đau khổ, thì làm
sao quí vị không nghi ngờ Phật pháp được?
Ngược lại những
gì quí vị đã được học trong kinh điển nói về các Tổ và các Thiền sư tu như thế
nào mà khi chết được tự tại làm chủ sanh tử luân hồi mà hiện giờ thì không thấy
có ai tu tập được, hay đây chỉ là huyền thoại để lừa bịp người sau chăng?
Giới Định Tuệ
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và Phật tử! Bây giờ chúng ta dừng lại chỗ này và trở lại
vấn đề chính của buổi nói chuyện hôm nay.
Để trả lời
câu hỏi thứ nhất: Pháp môn tu hành của chúng tôi là Pháp môn nào?
Xin trả lời,
chúng tôi tu hành theo pháp môn GIỚI, ĐỊNH, TUỆ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Trước khi chưa tu, là một tăng sinh đang học Phật Pháp, chúng tôi đã từng học
qua những lời di chúc của Đức Phật.
Lời di chúc
là lời dạy sau cùng của Đức Phật trước khi Ngài nhập Niết bàn.
Lời di chúc
thứ nhất Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, các con hãy lấy Giới Luật và Giáo Pháp
của ta làm Thầy và làm chỗ nương tựa để tu hành vững chắc khi ta nhập Niết
bàn”.
Lời dạy
này chúng tôi ghi khắc mãi trong tim, không bao giờ quên và cũng không bao giờ
quên ông Thầy của chúng tôi là Giới Luật và Giáo Pháp, là chỗ nương tựa vững chắc
cho sự tu hành của chúng tôi ngày mai.
Lời di chúc
thứ hai Đức Phật dạy: “Giới Luật còn là Phật còn tại thế, Giới Luật mất là Phật
mất”.
Lời dạy này
hình ảnh Giới Luật là hình ảnh của đức Phật, nên chúng tôi nghiêm khắc mình
trong Giới Luật không để vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Chúng tôi lấy đó
làm giai đoạn tu hành thứ nhất của mình.
Lời di chúc
thứ ba: “Ta thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật, các pháp lành đều nhờ
đó mà sanh, các Tỳ kheo hãy nhớ lấy mà tu tập”.
Lời di chúc
thứ tư, đó là lời di chúc không lời, khi nhập Niết Bàn, Đức Phật nhập từ Sơ Thiền
đến Tứ Thiền, nhập đi nhập lại tới ba lần rồi mới chịu nhập Niết Bàn.
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và Phật tử, ở đây Đức Phật muốn nhắc nhở người sau phải
ráng dụng công tu tập thiền định này, đừng bao giờ tu tập những loại thiền định
nào khác.
Vì trong cuộc
sống hiện giờ của chúng ta, trong thời Đức Phật đã qua và cũng như trong tương
lai nhiều thế hệ ở ngày mai vậy, sẽ có biết bao nhiêu thứ thiền mà chẳng có thứ
thiền nào đưa chúng ta đến sự làm chủ và giải thoát được thân tâm, nhất là chấm
dứt sự tái sanh luân hồi.
Cho nên Đức
Phật đã xác định chỉ rõ có thứ thiền này mới làm chủ được sanh tử, tự tại bỏ
báo thân và chấm dứt được tái sanh luân hồi mà thôi.
Vậy xin quí
vị Phật tử hãy lưu ý chỗ này. Cho nên khi nhập xuôi nhập ngược ba lần xong, đó
là Ngài di chúc cho chúng ta phải nhập Thiền Thứ Tư mới xả bỏ báo thân, và mới
nhập vào Niết Bàn.
Thể theo những
lời di chúc này chúng tôi tu tập ngày đêm không biết mệt mỏi, ốm đau quyết
không bỏ giờ tu suốt sáu tháng rưỡi trời trong thất chịu từng đắng cay gian khổ
để chiến đấu với tạp khí, thói quen, tật xấu; với nghiệp lực quá nặng nề; với
tâm tham ái, dục vọng dẫy đầy. Nhiều khi chúng tôi tưởng chừng không thắng nổi.
Nhưng với sức
bền lòng như sắt đá; với tinh thần kiên cường, gan dạ dũng cảm giữ thân tâm sừng
sững như núi đá; với nghị lực dũng cảm quyết liệt xông tới như thác đổ, chúng
tôi đã chiến thắng giặc sinh tử, làm chủ thân tâm của chính mình và chứng nghiệm
được sự giải thoát của đạo Phật một cách hùng hồn anh dũng.
Mục đích giải
thoát
Để trả lời
câu hỏi thứ hai: Sự tu hành của chúng tôi có kết quả như thế nào?
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và Phật tử! Giới luật là pháp môn tu tập để ly dục ly ác
pháp, nên giải thoát được đời sống của con người ra khỏi mọi ham muốn và mọi
sân hận, phiền não khổ đau.
Chúng tôi đã
chứng nghiệm được điều này rất thực tế và cụ thể. Ví dụ trước kia chúng tôi ăn
ngày ba bữa, bây giờ ăn ngày một bữa, không ăn uống lặt vặt phi thời gì hết, cơ
thể thì rất khỏe mạnh, ít hay bệnh tật, suốt ngày không lo ăn uống gì cả, tâm
ít vọng tưởng, ít ngủ.
Ăn ngày một
bữa, chúng tôi tìm thấy giải thoát được hai bữa ăn và đầu óc ít nghĩ bậy bạ,
tâm không ham muốn và không ham ngủ. Sự giải thoát chân thật cụ thể này thì quí
vị không thể nào phủ nhận được.
Cũng từ
trong sự tu giới luật này chúng tôi đã tìm được giải thoát nhiều điều trong đời
sống hàng ngày. Nhưng thì giờ có hạn không cho phép chúng tôi kể dông dài làm mất
thì giờ của quý vị vô ích.
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và Phật tử, thiền định của đạo Phật từ Sơ Thiền đến Tứ
Thiền là những pháp môn giải thoát tự tại sanh tử làm chủ sự sống chết của thân
tâm chúng tôi nhận biết rõ ràng bằng cách chứng nghiệm rất cụ thể.
Ví dụ chúng
tôi nhập Tứ Thiền suốt một tuần lễ, nửa tháng hoặc một tháng, không ăn uống gì
hết, không đi đại tiểu tiện, không mệt nhọc, không có đau khổ và cũng không chết.
Xuất định, chúng tôi cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng, an lạc. Đó là một bằng chứng
rất cụ thể.
Như vậy sự
tu hành của chúng tôi về đời sống đã có giới luật làm khuôn mẫu mực cho cuộc sống,
nên tâm lúc nào cũng ly dục ly ác pháp, vì thế thân tâm bất động trước các pháp
và các cảm thọ.
Còn về phần
chết chúng tôi đã có Tứ Thần Túc nên làm chủ được hơi thở một cách dễ
dàng.
Vì thế làm
chủ sự chết không còn khó khăn nên chúng tôi muốn chết hồi nào cũng dễ dàng chết
và muốn sống hồi nào cũng dễ dàng sống như trở bàn tay; như lấy đồ trong túi
áo. Do tu tập đúng pháp của Đức Phật, chúng tôi đã làm chủ sự sống chết theo ý
muốn của mình.
Quí vị có
tin không? Nếu không tin thì quí vị cứ xét qua đời sống giới luật đức hạnh của
chúng tôi thì rõ. Nhưng riêng chúng tôi tu hành được giải thoát làm chủ sự sống
chết là mãn nguyện, còn tin hay không tin đó là quyền của quý vị.
Sau khi có đủ
năng lực làm chủ thân tâm, chúng tôi dùng năng lực ấy quan sát không gian và thời
gian, thọ hưởng an lạc suốt trong tuần lễ chứng đạo.
Vì thế trong
thời gian ấy chúng tôi thực hiện Tam Minh: từ Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh đến
Lậu Tận Minh. Lậu Tận Minh là trí tuệ cuối cùng trong sự tu tập của chúng tôi.
Đến đây chúng tôi đã có đủ: GIỚI, ĐỊNH, TUỆ theo con đường tu tập mà Đức Phật
đã vạch ra chỉ dạy từ ngàn xưa.
Sự lợi ích của
Phật Giáo
Để trả lời
câu hỏi thứ ba là kết quả ấy có ích lợi thiết thực giải thoát cho đời người hay
không?
Đạo Phật là
đạo đức nhân bản - nhân quả, sống không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai;
nó là đạo đức của loài người trên hành tinh này, nhờ nó mà con người mới thoát
ra khỏi bản tính của loài động vật.
Vì thế, có
lý đâu mà không lợi ích thiết thực giải thoát cho mọi người.
Tu tập ít có
lợi ích ít; tu nhiều có lợi ích nhiều. Vì nó là đạo đức nhân bản của loài người;
nó là khuôn vàng, thước ngọc đo sự sống của con người mới xác định con người thật
là con người hay là con người còn mang bản chất của loài cầm thú.
Cho
nên làm người cần phải tu học không thể phủ nhận và từ chối đạo đức này được.
Phạm hạnh
Để trả lời câu
hỏi thứ tư: Sự giải thoát đó có phải của đạo Phật hay không?
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và Phật tử! Quí vị hãy vui lòng đọc lại các kinh điển
nguyên thủy của đạo Phật, rồi nghiệm lại đời sống của Đức Phật và đời sống của
chúng tôi. Đời sống của Đức Phật:
1-Ăn ngày một
bữa, không ăn uống lặt vặt phi thời.
2-Ngủ ít,
thường đi kinh hành suốt đêm (đi trong chánh niệm tỉnh giác; đi trong sự quán
thân trên thân của Tứ Niệm Xứ để nhiếp phục tham ưu).
3-Không có của
cải, châu báu, ngọc ngà, tiền bạc và cũng không có chùa to, Phật lớn sang đẹp.
4-Sống lấy gốc
cây làm giường nằm, chết dưới gốc cây (Sa la song thọ).
Hiện giờ
chúng tôi cũng sống như vậy: không ăn uống lặt vặt phi thời. Nhà ở bằng cây tầm
vông, vách bằng liếp đan và nếu đủ duyên chúng tôi sẽ sống trong hang núi và
cũng chết dưới gốc cây như Đức Phật, ngủ ít đi kinh hành nhiều.
Đó là
lối sống của Đức Phật và lối sống của chúng tôi đều giống nhau. Cho nên quí vị
không thể nào phủ nhận rằng chúng tôi sống và tu sai pháp Phật được.
Phần làm chủ
thân tâm thứ hai cũng rất cụ thể. Đức Phật tuyên bố trước mọi người còn ba
tháng nữa Ta sẽ nhập Niết Bàn. Điều này Đức Phật đã giữ đúng lời hứa.
Chúng
tôi đã nhập được Tứ Thiền, phá được thọ, tịnh chỉ được hơi thở, cho nên
chúng tôi cũng làm được điều này khi chúng tôi muốn dứt bỏ báo thân. Nhờ tu tập
đạt được kết quả như vậy, nên chúng tôi rất mãn nguyện với sự tu tập của mình.
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và Phật tử! Chúng tôi có sống và làm khác Đức Phật hay
không? Ở đây quí vị không thể nào viện một lý do gì bảo rằng chúng tôi tu sai
pháp Phật được.
Xưa Đức Phật
đã làm được điều gì thì bây giờ chúng tôi cũng làm được như vậy.
Tuy rằng
chúng tôi không giảng Kinh thuyết pháp như các thầy khác nhưng chúng tôi thân
giáo bằng hành động thân, khẩu, ý; bằng sự sống của chúng tôi để hướng dẫn người
qua kinh nghiệm tu hành bản thân của mình hơn là ngôn ngữ.
Vì sự hướng
dẫn này, theo chúng tôi nghĩ là thực tế và cụ thể hơn là thuyết pháp bằng lời
nói suông.
Trên đường
tu theo đạo Phật chúng tôi tu hành như vậy, không còn sợ sai trái với đạo Phật
và không còn sợ mọi ảnh hưởng của các tôn giáo khác đang đồng hóa đạo Phật.
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và Phật tử, khi nghe chúng tôi nói đến đây, quí vị nên
nghỉ xả hơi một chút để ngồi suy ngẫm lại những gì chúng tôi đã nói ra những kết
quả đời sống phạm hạnh của chúng tôi với đời sống của Đức Phật có đúng hay
sai.
Sai thì xin
quý vị cho biết thêm những ý kiến để chúng tôi chứng minh những lời Phật dạy,
khiến cho quý vị không còn nghi ngờ nữa.
Giới Luật là
một vị thầy được Đức Phật di chúc Sau thời gian nghỉ xả hơi, bấy giờ chúng
ta lại tiếp tục câu chuyện còn đang dở dang lúc nãy...
Sau khi đã
được trả lời những câu hỏi mà bấy lâu nay quí vị đã từng ôm ấp trong lòng, hằng
chờ đợi đến ngày ra thất của chúng tôi. Nay quí vị đã được giải bày thông suốt.
Nhưng chúng
tôi biết chắc quí vị còn một điều muốn thưa hỏi, đó là con đường thiền Đông Độ
mà Thầy chúng tôi (H.T.T.T) đã dày công triển khai và chấn hưng suốt 24 năm
nay, kể từ năm 1970 cho đến nay, quá trình thời gian rất dài.
Nhưng
nhìn lại trong đó không thấy có kết quả gì thì mọi người cũng phải nghi ngờ, thời
gian là một xác chứng cụ thể của con đường thiền đó, mà không chứng minh được,
do đó quí vị phải có một mối nghi trong tâm là đúng, nhưng còn e ngại chưa muốn
hỏi chúng tôi, chúng tôi hứa sẽ giải nghi cho quí vị nếu có đủ thì giờ bằng
không chúng ta phải chờ một dịp khác. Bây giờ chúng ta trở lại vấn đề.
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và Phật tử, nãy giờ quí vị đã suy ngẫm những gì chúng tôi
đã nói, chúng tôi xin nhắc lại quí vị đã biết ai là Thầy của quí vị, người đó sẽ
dẫn dắt quí vị trên đường tu theo đạo Phật mà không hề sợ lạc lối.
Chúng tôi
xin hỏi quí vị một lần nữa: Thầy của quí vị là ai? Quí vị cứ trả lời xem, đừng
dựa vào huyền sử 33 vị Tổ sư thiền Đông Độ và Trung Hoa, vì đó là sự dựng lên
những trang sử không có thật của người sau.
Kính thưa
quí vị, nãy giờ quí vị không trả lời là vì quí vị còn dè dặt, để chúng tôi trả
lời thay cho quí vị.
Kính thưa
quí vị, căn cứ theo kinh sách Nguyên thủy thì Thầy của quí vị không phải là
chúng tôi. Chúng tôi là những con người bằng xương, bằng thịt như quí vị, chúng
tôi và 33 vị tổ sư thiền Ấn Độ và Trung Hoa cũng không được Đức Phật chỉ định
làm người thừa kế dẫn dắt quí vị trên đường tu học theo đạo Phật.
Cho nên quí
vị đừng nương tựa theo chúng tôi tu hành cũng như các vị Tổ sư thiền. Nhất là
nương tựa theo chúng tôi tu hành sẽ có nhiều điều bất lợi và khó khăn cho quí vị:
1- Chúng tôi
không phải là người thừa kế của đạo Phật, vì thế chúng tôi không đủ niềm tin đối
với quí vị. Khi quí vị nghe người ta nói xấu chúng tôi, cho chúng tôi tu hành
không đúng đạo Phật, tu theo ngoại đạo thì chừng đó quí vị còn có đủ niềm tin đối
với chúng tôi nữa chăng?
2- Thời điểm
hiện giờ Phật giáo suy thoái. Người tu sĩ Phật giáo đắm danh, tham lợi, lòng
ganh tị nhỏ nhen ích kỷ hẹp hòi và tinh thần tỵ hiềm cao độ.
3- Pháp môn
tu hành của đạo Phật hiện giờ đã bị lẫn lộn nhiều pháp môn của ngoại đạo khó
phân biệt tà chánh.
4- Các bậc
Tôn túc đi trước tu hành sai, người sau không dám sửa đổi sợ Thầy Tổ buồn phiền.
5- Lòng người
còn tham danh, đắm lợi, tham mê sắc dục không muốn rời xa 5 thứ dục lạc của thế
gian (danh, lợi, sắc, thực, thùy).
6- Đời người
còn lạc hậu nặng lòng mê tín thường cầu khẩn bái lạy tụng kinh niệm chú lấy Đức
Phật làm chỗ tha lực nương tựa cứu khổ cứu nạn, chứ không tự lực cứu mình, khiến
đạo Phật thành đạo Thần.
7- Ham mê thần
thông, bùa chú linh hiển, tin chuyện quá khứ vị lai.
8- Lòng người
bây giờ thiếu thành thật thường dối Thầy, dối Tổ, dối mình và dối người khác.
9- Tham danh
học thức cao chạy theo cấp bằng này, cấp bằng nọ.
10- Những bậc
chân tu không xu hướng chính trị bên này, bên kia thì bị cô lập mọi cách.
Do 10 điều
trên đây quí vị không nên theo chúng tôi tu hành, vì theo tu hành rất khó khăn
cho quí vị và chúng tôi. Vả lại theo chúng tôi tu hành đông đảo chắc chắn sẽ để
lại một trang sử chia rẽ Phật giáo không tốt đẹp.
Xưa Huệ Khả
bị giết, Lục Tổ Huệ Năng bị hành thích, gần đây Tổ Sư Minh Đăng Quang bị bắt
cóc mất tích, ông Đạo nằm Nguyễn văn Thế bị ám sát bắn chết tại chùa.
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và Phật tử, người Thầy của quí vị không phải là chúng tôi
mà chính Giới Luật. Giới Luật là người thừa kế của Đức Phật và đã được Đức Phật
chỉ định trước giờ nhập Niết bàn.
Chính chúng
tôi tu học cũng từ ông thầy Giới Luật mà có được như ngày hôm nay. Vậy quí vị
hãy trở về nương tựa nơi ông Thầy Giới Luật của quí vị đi.
Đừng nương tựa
vào ai hết, dù bất cứ ông Thầy nào, họ là những con mọt kinh sách, chẳng có một
chút kinh nghiệm gì trên đường tu tập. Họ chỉ nói bằng miệng mà cuộc sống tu
hành của họ chẳng có ra gì, chỉ có miệng lưỡi. Họ đâu biết rằng kinh sách hôm
nay là do tam sao thất bổn, có nghĩa là ba lần sao chép làm kinh mất gốc.
Tăng, Ni xem
nhẹ Giới Luật
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử, vả lại kinh sách còn do tưởng giải của
người sau thêm bớt quá nhiều theo kiến thức hiểu biết của họ, rồi cho rằng
đúng, do đó họ đã làm lệch lạc con đường tu hành của đạo Phật ở đời sau. Họ
không dám tu giới luật, lúc nào cũng tìm cách tránh né viện cớ này, cớ kia hoặc
chạy theo con đường phá giới, phá oai nghi tế hạnh của đạo Phật.
Tóm lại chẳng
nghe ông Thầy Giới Luật nên tình trạng Phật giáo mới ra nông nỗi này.
Họ dám bẻ vụn
Giới Luật, biến Phật giáo thành Thần Giáo, ông Phật thành ông Thần.
Hiện giờ
chùa là nơi cúng bái cầu siêu, cầu an, cầu tài, cầu lợi, xin xăm bói quẻ cúng
sao giải hạn, coi ngày giờ tốt xấu, dựng vợ gả chồng...
Vì thế, chùa
là nơi sinh hoạt mê tín dị đoan. Họ dám bẻ hỏng Giới Luật, biến chùa thành
nghĩa địa nhà mồ vì tư lợi nhỏ mọn cá nhân để Phật tử tới lui cúng bái và
giỗ chạp làm tuần, làm tự, cúng vong, tiễn linh, lúc nào cũng ồn náo biến thành
nơi phục vụ mê tín cho những người Phật tử còn lạc hậu; họ dám bẻ hỏng giới luật
và giáo pháp của Phật biến chùa thành khu du lịch để làm nơi ăn chơi của Phật tử,
của khách hành hương tham quan du ngoạn.
Bắt Tăng, Ni
phục vụ cơm nước để được lòng Phật tử, được cúng dường; họ dám bẻ hỏng Giới Luật
biến chùa thành chỗ tổ hợp buôn bán làm tương, làm chao, làm đủ mọi thứ nghề
nghiệp, biến Tu sĩ thành công nhân sản xuất gia dụng v.v... còn đâu có những
thì giờ để tu hành, thật là phí uổng một đời người; họ dám bẻ hỏng Giới Luật biến
chùa thành cửa hàng ăn uống, bắt Tăng, Ni phục vụ, còn gì thể thống đạo đức của
người tu.
Họ chỉ biết
có tiền, có lợi mà không thấy việc làm của họ đúng hay sai; họ dám bẻ hỏng Giới
Luật biến chùa thành nông trại, tu sĩ thành nông dân để có miếng cơm manh áo hằng
ngày không đúng tư cách của người tu sĩ.
Họ lấy gương
Bách Trượng một ngày không làm một ngày không ăn, sách động tu sĩ lao động để
xây dựng chùa to Phật lớn như cung đình, lao tác quần quật như con ong và như vậy
còn gì là đời tu của tu sĩ; họ dám bẻ hỏng Giới Luật biến chùa thành cơ quan từ
thiện xã hội, nay kêu đoàn Phật tử này quyên góp tiền bạc và đồ vật gia dụng đi
cứu tế chỗ này, mai kêu đoàn Phật tử khác quyên góp tiền bạc và đồ vật gia dụng
đi cứu tế chỗ kia.
Họ đâu biết
rằng bổn phận của họ là lo giải quyết sanh tử trước mắt thì Phật giáo mới còn,
chứ đâu phải làm việc từ thiện này. Làm việc từ thiện này là của những người cư
sĩ.
Thời đức Phật
còn tại thế, ông Cấp Cô Độc là người cư sĩ làm những việc từ thiện này nên mới
có tên là Cấp Cô Độc, còn bây giờ Tăng, Ni là Cấp Cô Độc, là nhà từ thiện, họ
không còn là những bậc Thánh Tăng và Thánh Ni nữa; họ dám bẻ hỏng Giới Luật biến
chùa thành Tuệ Tĩnh đường, trạm y tế, bệnh viện, trạm xá, trường học, biến tu
sĩ thành thầy thuốc ta, thuốc bắc, bác sĩ, y sĩ, dược tá, y tá, giáo viên...
khiến nơi tu hành mất hết vẻ tôn nghiêm thanh tịnh; họ dám bẻ hỏng Giới Luật
chuyên lo đào đất làm hồ, xây dựng chùa to tháp lớn, biến Tăng Ni thành lao
công quanh năm suốt tháng lao động quần quật, còn sức đâu mà tu hành; họ dám bẻ
hỏng Giới Luật đi quyên góp tiền Phật tử xây chùa to tháp lớn như đền đài cung
điện các vua chúa và tạo cây cảnh vườn tược đẹp đẽ để quyến rũ Phật tử và khách
tham quan, biến tu sĩ trở thành những lao công quét dọn công viên và chăm sóc
cây cảnh.
Những việc
làm này ngược lại đạo giải thoát của Phật; họ dám bẻ hỏng Giới Luật đi khất thực
không đúng oai nghi tế hạnh, xin tiền, xin đô la làm những việc đồi bại như những
người ăn mày khất cái.
Những hình ảnh
này thật là đau lòng cho Phật giáo ngày nay.
Những điều
quí vị đã làm ở trên đều phạm vào Giới Luật của Đức Phật, vì danh, vì lợi sang
đẹp mà quí vị đã bắt chước các tôn giáo khác và người thế tục, những việc làm
này không phải là tu sĩ Phật giáo làm.
Nếu trong
kinh sách của Phật có dạy làm những điều này là do những người sau họ bị ảnh hưởng
của các tôn giáo khác mà thêm vào.
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và Phật tử, những gì quí Thầy đã làm và chúng tôi đã nói ở
trên không phải là những gì làm sai đối với thế gian, những người thế tục,
nhưng chỉ là sai đối với đạo Phật, lại đúng đối với các tôn giáo khác, cho nên
chúng tôi nói Phật giáo chịu ảnh hưởng của các tôn giáo khác là vậy.
Phật giáo chủ
trương đường lối buông xả, mục đích của đạo Phật là để tìm giải thoát cho mọi
cá nhân ra khỏi sự đau khổ, sanh, lão, bệnh, tử của đời người.
Cá nhân được
thoát khổ thì xã hội mới an vui. Cá nhân còn đau khổ thì quí vị có giải quyết từ
thiện bằng cách nào thì xã hội vẫn còn đau khổ và còn hơn thế nữa.
Tuy rằng trước
mắt tạm thời quí vị an ủi họ một chút mà thôi vì bản chất dục vọng tham lam ham
muốn ganh tị hơn thua gian dối xảo trá giết sinh linh ăn thịt chúng sinh của
loài người ngàn đời không bao giờ từ bỏ được.
Do nguyên
nhân này mà con người bóc lột lẫn nhau bằng mọi thủ đoạn mánh khóe gian xảo.
Ngoài mặt làm ra vẻ thương yêu bác ái, nhưng còn bên trong toàn là gươm đao,
súng đạn.
Giai cấp bị
bóc lột đứng lên đấu tranh để bảo tồn quyền lợi sống còn của mình, do đó thế giới
mới có chiến tranh liên miên không nước này thì cũng nước khác.
Vì thế, đạo
Phật nhắm vào giải quyết cá nhân, giải quyết cá nhân là giải quyết xã hội. Cá
nhân tốt thì xã hội mới tốt, cá nhân xấu thì xã hội xấu.
Cá nhân hay
tập thể làm từ thiện mà trong đó còn có danh cầu từ thiện thì không phải là từ
thiện. Làm từ thiện để được tiếng thiện thì còn nghĩa lý gì là từ thiện.
Làm từ thiện
là do lòng yêu thương trước cảnh bất hạnh của những người khác.
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử, vì việc làm từ thiện mà cá nhân và gia
đình quí vị toàn là gặp đau khổ không thiện chút nào.
Kính thưa
quí vị, những điều chúng tôi nói ở trên, Tăng, Ni hay là những người từng học
Giới Luật của Phật, họ đều biết rất rõ những điều ngăn cấm này.
Nhưng có điều
hiện giờ sự tu hành của họ không có chất liệu giải thoát. Họ chỉ học lý thuyết
suông nên họ phải chuyển qua làm những việc từ thiện này để tiêu thụ cái nợ đàn
na thí chủ. Nếu không thì làm sao nuốt trôi được.
Giới Luật của
Phật còn đó, nó là bậc Thầy của quí vị, nó thường ngăn cấm quí vị làm những điều
sai, cớ sao quí vị không nương tựa vào ông Thầy của mình, để sửa những điều
sai, để mình trở thành những người tốt có đạo đức, biết thương yêu sự sống của
muôn loài.
Ngược lại
không nương vào giới luật mà lại nương tựa vào những Thần, Thánh, Quỉ, Ma hoặc
những đấng sáng tạo ảo giác, để cho Phật giáo bây giờ mới ra nông nỗi
này!
Nếu quí vị
tu hành đúng Giới Luật nghiêm khắc mình trong Giới Luật thì đó chính là con đường
của đạo Phật, con đường giải thoát thật sự.
Hình ảnh và
đức hạnh giải thoát của quí vị là quí vị đã chấn hưng Phật giáo, chứ đâu phải cất
chùa to tháp lớn mới gọi là chấn hưng, đạo Phật không cần những thứ này.
Chỉ cần những
hình ảnh và đức hạnh giải thoát của quí vị là quí vị làm sáng tỏ Phật Pháp, chứ
đâu cần có Tăng Ni cho nhiều mà Giới Luật chẳng ra gì.
Hình ảnh và
đức hạnh giải thoát của quí vị là quí vị đã xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn một
ngàn lần quí vị làm công tác từ thiện xã hội.
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và Phật tử, đến đây chúng tôi xin quí vị nghỉ xả hơi một
chút để suy ngẫm lại những điều chúng tôi đã nói.
Xả bỏ danh,
lợi
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và Phật tử, bây giờ chúng ta nên trở lại vấn đề.
Sau khi được
nghe chúng tôi kể lại sự tu hành và chỉ định ông Thầy của quí vị, quí vị phải cẩn
thận nghiên cứu kỹ pháp môn nào tu được, pháp môn nào không tu được, pháp môn
nào của chính Đức Phật và pháp môn nào không phải của Đức Phật và ai là ông Thầy
của quí vị.
Do sự cẩn thận
suy xét chúng tôi tin chắc rằng quí vị sẽ hướng về chúng tôi.
Nhưng kính
thưa quí vị chúng tôi là những tu sĩ Phật giáo, chúng tôi đâu có chùa, đâu có
chỗ ăn, chỗ ở cho quí vị, chúng tôi là những người ăn xin, ở trọ của người
khác.
Khi nghe
chúng tôi nói đến đây quí vị rất lấy làm ngạc nhiên có phải vậy không? Tuy quí
vị chưa dám nói ra, nhưng tự nghi vấn trong lòng rằng: Tu viện Chơn Như trước mắt
đây mà Thầy nói rằng Thầy không có chùa thì bảo sao chúng tôi tin được?
Xin thưa với
quí vị Phật tử, từ những khu đất rộng rãi này đến những ngôi nhà chư Tăng, Ni ở,
cùng trai đường, nhà bếp, điện thờ Phật, Thiền đường, Tổ đường, phòng vệ sinh,
phòng tắm, hồ nước và tất cả tài sản trong chùa đều của các cư sĩ như: Cô Út Diệu
Quang ở đây, vợ chồng Chơn Tâm, Tâm Như, Tâm Giác, Như Trì, Như Lý, vợ chồng
Minh Tâm, cô Diệu Tâm, Diệu Mỹ, ông Muời, Diệu Hương, vợ chồng Thiện Hiển, Ngộ
Ngọc và Cháu Tùng v.v...
Còn những
cái ăn cái mặc hàng ngày cũng đều do các cư sĩ này và nhiều cư sĩ khác nữa.
Từng thùng gạo,
từng ổ bánh mì, từng chai nước tương, từng hạt muối, đường, sữa, trái cây, xà
bông, bột ngọt, vải xồ, y áo và thuốc thang trị bệnh.
Cho
nên chúng tôi đâu có gì để nuôi quí vị. Xưa đức Thế Tôn không có nuôi một vị Tỳ
kheo nào hết. Các vị muốn tu theo đạo Phật phải tự đi xin mà ăn.
Chúng tôi
bây giờ cũng vậy, là người xin ăn ở trọ. Chúng tôi đâu dám làm phiền những vị
cư sĩ này, vì kinh tế gia đình của họ có mức độ.
Kính thưa
quí vị, chúng tôi là những tu sĩ Phật giáo không bao giờ dám mở miệng xin tiền,
cất chùa hoặc xin tiền để làm những việc gì khác cho cá nhân mình.
Vì đức Phật
và Giới Luật không có dạy chúng tôi làm điều đó. Nếu quí vị Phật tử có nghĩ đến
chúng tôi là những kẻ tu hành chơn chánh thì cúng dường cho chúng tôi được no
lòng và y áo được lành lặn. Còn không cúng dường thì chúng tôi chịu đói lòng và
rách nát.
Dù sống
trong cảnh trạng như vậy chúng tôi cũng chẳng hề mở miệng than thở xin xỏ cùng
ai.
Còn ngược lại
quí vị cúng dường mà không có tâm thành thì chúng tôi thà chịu đói chứ không thọ
dụng.
Cúng dường
những vật dụng không đúng chánh pháp thì chúng tôi cũng chẳng dùng.
Chúng tôi là
những tu sĩ Phật giáo nghiêm khắc mình trong Giới Luật không thể dùng những lời
hoa mỹ đẹp đẽ giả dối đạo đức để lừa gạt người, làm danh, làm lợi cho mình.
Chúng
tôi là những tu sĩ Phật giáo không dám dùng những điều mê tín, dị đoan bùa
linh, chú thuật giỏi, nói chuyện quá khứ vị lai như coi bói, xem tướng, coi
sao, giải hạn để gạt người bằng cách vô lương tâm, gây tạo sự mê tín cho muôn
người là điều bất chánh phi đạo đức.
Chúng tôi là
những tu sĩ Phật giáo không thể tổ chức hành hương đi chỗ này chỗ kia hoặc đi
mười chùa, hai mươi chùa để khéo léo móc túi tiền của Phật tử ham vui thích đi.
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử, vì thế chúng tôi không có chùa, không
có cơm để ban cho quí vị ăn, không có áo để cho quí vị mặc.
Chúng tôi là
những người giải thoát hoàn toàn không có gì cả ngoài cái bát để ăn cơm hàng
ngày và vài bộ y áo để mặc kín thân.
Nếu quí vị
muốn tu theo chúng tôi thì chỉ khi nào có những vị cư sĩ tự phát tâm cúng dường,
chứ quí vị không được kêu gọi họ. Khi nào quí vị có chỗ ăn chỗ ở thì quí vị
thỉnh mời chúng tôi về đó.
Chúng tôi sẽ
cho người hướng dẫn quí vị tu hành. Khi quí vị tu xong thì cũng là lúc chúng
tôi sẽ liền rời khỏi nơi đó và ẩn mình trong hang đá gốc cây.
Chúng tôi là
những người đã sống buông xả hết, vì thế chúng tôi được tự tại giải thoát không
còn vướng bận chuyện trần ai.
Khi đủ duyên
chúng tôi hướng dẫn quí vị, thiếu duyên chúng tôi ẩn mình trong núi hoặc nơi
thanh vắng ít người, quí vị khó lòng mà tìm.
Sau ngày ra
thất quí vị có về Chơn Như nhưng quí vị cũng khó mà gặp lại chúng tôi.
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và Phật tử, nếu quí vị muốn học kinh nguyên thủy thì quí
vị đến Hoà thượng Thích Minh Châu ở Thiền Viện Vạn Hạnh thành phố H.C.M, nếu
quí vị muốn tu Thiền Đông Độ thì quí vị hãy đến Hoà Thượng Thích Thanh Từ ở Thiền
Viện Trúc Lâm Đà Lạt, nếu quí vị muốn tu theo Tịnh Độ thì quí vị hãy đến Hoà
Thượng Thích Trí Tịnh ở chùa Vạn Đức Thủ Đức, nếu quí vị muốn tu theo Mật Tông
thì quí vị hãy đến Hòa Thượng Thích Tịch Chiếu ở Bình Dương, nếu quí vị muốn tu
theo Thiền đốn ngộ thì quí vị hãy đến Hòa Thượng Bửu Thắng ở Gò Công, nếu quí vị
muốn tu theo thiền Công Án thì quí vị hãy đến Hòa Thượng Duy Luật ở chùa Từ Ân
Chợ Lớn thành phố H.C.M. Tất cả những vị này sẽ chỉ dạy cho quí vị đúng với sở
nguyện của mình.
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử, tại sao Tu Viện Chơn Như không đề
Thiền Viện Chơn Như? Chúng tôi ở đây tu theo ba Pháp môn Giới, Định, Tuệ nên
không thể nào đề Thiền viện được vì thế chúng tôi dùng chữ Tu viện mới đúng
nghĩa của ba Pháp môn này.
Ngày xưa Đức
Phật không tự xưng mình là Thiền sư mà chỉ xưng mình là bậc Như Lai, Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và nam nữ cư sĩ Phật tử, một sự vô ý hay hữu ý mà người
ta chạy theo xu hướng Thiền tông rầm rộ rồi tự đặt tên chùa là Thiền Viện này,
Thiền Viện nọ để thu hút lòng hiếu tu thiền của người Phật tử.
Chúng tôi tu
theo đạo Phật, không bị mọi xu hướng của thời đại và chạy theo mọi phong trào của
quần chúng. Chúng tôi luôn luôn tự xét mình làm cái gì đúng và làm cái gì sai để
không lầm lỗi, để không bị ảnh hưởng mọi phong tục tập quán của con người.
Vì vậy tên
Tu Viện Chơn Như vẫn đứng vững vàng không bị ảnh hưởng của Thầy Tổ. Chùa xây cất
bằng tầm vông liếp đan, nhưng mãi mãi muôn đời người ta sẽ ghi nhớ không quên.
Chúng tôi
không phải Phật, Bồ tát, A la hán
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử, hôm nay đã được nghe chúng tôi kể lại sự
tu hành xin quí vị đừng nghĩ rằng chúng tôi là Phật, là Bồ Tát, là A La Hán.
Chúng tôi tu hành chẳng có chứng đắc gì cả.
Chỉ hằng
ngày tu tập làm chủ thân tâm của mình. Lâu ngày chúng tôi làm chủ được nó nên
không thể nào gọi là Phật, là Bồ Tát, là A La Hán, vì chúng tôi thấy mình cũng
bằng xương, bằng thịt như chính quí vị vậy, cũng cười, cũng nói, vui vẻ như quí
vị.
Vì thế chúng
tôi chẳng phải Phật, Bồ Tát, A La Hán, chúng tôi chỉ là con người như bao nhiêu
người khác, nhưng nhờ tu tập làm chủ thân tâm, chúng tôi trở thành con người biết
cách làm chủ mình nên tâm không buông lung, phóng dật, thân không hành động thô
ác, miệng không nói lời hung dữ gian dối, xảo trá, ý không khởi niệm xằng
bậy.
Chúng tôi
cũng chẳng phải là Thánh Đức, Hiền Nhân, Siêu nhân, chúng tôi là con người bình
thường như bao con người khác, nhưng có điều chúng tôi biết chắc rằng chúng tôi
không bao giờ làm khổ mình khổ người và cũng biết chắc rằng chúng tôi chẳng có
thần thông phép tắc gì cả. Chúng tôi không thể kêu mây, hóa lửa, làm gió.
Chúng tôi chẳng
biết chuyện quá khứ vị lai của ai hết. Chúng tôi chỉ biết đủ và không cầu mong
gì hết, cho nên quí vị đừng đảnh lễ chúng tôi.
Chúng tôi
không phải là Thầy của quí vị và cũng không phải vị Tổ Sư nào cả, chúng tôi
cũng không phải Bồ Tát, A La Hán nữa. Chúng tôi cũng bình đẳng và bình thường
như quí vị.
Chúng tôi là
bạn lành của quí vị, khi quí vị muốn. Chúng tôi xin nhắc lại một lần nữa, lưu ý
quí vị, chúng tôi là bạn lành của quí vị. Vậy từ nay về sau quí vị đừng đảnh lễ
chúng tôi. Nếu quí vị đảnh lễ chúng tôi là quí vị đã làm cách xa chúng tôi với
quí vị.
Quí vị đã biến
chúng tôi thành ông Thần, ông Thánh, ông Vua để quí vị lạy chứ không phải quí vị
theo chúng tôi để tu hành. Đạo Phật là một tôn giáo không có giai cấp thế mà
quí vị biến chúng tôi thành giai cấp bề trên để cho quí vị không bao giờ dám mở
miệng khuyên răn khi chúng tôi làm những điều sai với đạo Phật.
Nhiều khi
quí vị còn a dua theo chúng tôi để bây giờ quí vị chứng kiến sự tệ hại của Phật
giáo đến tận cùng.
Kính thưa
quí vị, chúng tôi xin quí vị mỗi lần gặp nhau đều chấp tay lên xá nhau là đủ lắm
rồi.
Vì đôi bàn
tay của quí vị chấp lại tượng trưng cho búp sen. Sen là một loài thảo mộc, mọc
dưới nước bùn nhơ hôi thối, thế mà hoa sen vươn lên không hôi thối mùi bùn mà
còn toả hương thơm ngát.
Cũng giống
như chúng ta vậy, sống trong cõi đời đầy ô trược mà luôn luôn lúc nào cũng giữ
thân tâm trong sạch như hoa sen kia vậy.
Chúng ta chấp
tay lại là tượng trưng cho hoa sen, đó là nói lên được lòng trong sạch thanh
khiết của chúng ta kính cẩn chân thành chào nhau thì trên đời này không có gì
quí bằng.
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử, các bậc Tôn túc Thầy Tổ của chúng ta đã
bị ảnh hưởng bởi vua chúa phong kiến quá nặng, nên cuộc sống của các Ngài đều tỏa
mùi phong kiến, khiến cho nhân phẩm bình đẳng của con người mất đi (dân lạy
quan, quan lạy vua) và tình cảm của chúng ta bị xa cách vì giai cấp quân thần.
Thưa quí vị,
những gì chúng ta làm là chúng ta phải có ý thức đầy đủ đừng để phong tục tập
quán của con người đồng hóa Phật giáo mà người ta coi rẻ và khinh thường đạo Phật.
Tổng hợp các
pháp theo kiến giải
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử, bây giờ chúng ta dừng câu chuyện tại
đây để trả lời bức thư của một người Phật tử gửi đến hỏi chúng tôi cách thức tu
hành của vị này có đúng hay không.
Chúng tôi
xin trả lời và xin mời người chủ của bức thơ chú ý nghe.
Trong thư Phật
tử đã nêu năm Pháp môn của kinh sách phát triển, gồm có:
1 - Quán tâm
theo kiểu Đại thừa
2 - Mật Tông
thần chú
3 - Tịnh Độ
4 - Giới Luật
5 - Hơi thở
Phật tử đã tổng
hợp 5 pháp môn này làm thành một pháp môn để tu hành. Tuy nhiên trước mắt Phật
tử có một lợi nhỏ, tu lâu về sau không nhập được các chánh định của Phật, phần
nhiều nhập vào định tưởng. Cách thức mà Phật tử đã trình trong thơ chúng tôi
nghiệm xét thấy:
1 - Quán tâm
chẳng ra quán tâm
2 - Mật Tông
chẳng ra Mật Tông
3 - Tịnh Độ
chẳng ra Tịnh Độ
4 - Giới Luật
chẳng ra Giới Luật
5 - Hơi thở
chẳng ra hơi thở
Trong thư Phật
tử còn cho chúng tôi biết kết quả ưu điểm của sự tu tập này:
“1 - Lúc nào
con cũng thấy tâm con vui an lạc. Tối nằm xuống là ngủ liền, không trằn trọc,
không chiêm bao mộng mị, không cảm thấy nhớ nhung gia đình, lòng dạ rỗng rang
vô tư lự như trẻ con.
2 - Trạng
thái thiền định của con cũng tốt, không bao giờ bị tán loạn hôn trầm. Con định
tâm cũng dễ, đôi khi hơi thở và câu niệm PHẬT của con chỉ còn mong manh nhu
nhuyễn như một sợi chỉ.
Con chìm đắm
trong một trạng thái tĩnh lặng rất dễ chịu, nhưng con vẫn tỉnh chứ không mê. Lúc
đó con hoàn toàn không cần một chút dụng công nào. Con chỉ để cho hơi thở ra
vào một cách tự nhiên và nó tự nhẹ lần, chứ con không tác ý”.
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử, Chúng tôi xin trả lời gọn và dễ hiểu để
không mất thì giờ. Theo lối tu tập của vị Phật tử này không có kinh nghiệm
chuyên môn mà chỉ chạy theo an lạc do xúc tưởng hỷ lạc sinh ra. Lối tu này là của
Phật Giáo cổ truyền trong các chùa Tịnh Độ thuộc Phật Giáo cổ Sơn Môn, Lục Hoà
Tăng theo nghi thức tụng niệm của họ.
Xin thưa
cùng quí vị, người Phật tử này đang đi tìm dục lạc mới hay đi tìm thế giới siêu
hình thần thông phép lạ trong các pháp môn này thuộc hệ thống kinh sách phát
triển hơn là tìm tu giải thoát.
Đó là một
pháp môn tổng hợp Thiền, Tịnh, Mật của quốc sư Ngọc Lâm trong thời vua Nhà
Thanh Trung Hoa. Chúng tôi xin nhắc lại một lần nữa “người Phật tử này đang đi
tìm dục lạc mới hay đi tìm thế giới siêu hình thần thông phép lạ trong các pháp
môn tổng hợp”.
Tu như vậy
không phải là người đi tìm sự giải thoát của đạo Phật. Đây cũng là một thứ bệnh
tu hành thời đại cầu mong tìm hỷ lạc dễ chịu để trốn khổ trong cuộc sống, hay
đi tìm một thứ cao siêu vượt bực khác của con người.
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử, trong những ngày nhập thất chúng tôi đã
được biết có một số Tăng Ni và Phật tử đều thuộc giới có học thức thế mà lại tu
theo pháp môn của ngoại đạo.
Những pháp
môn này mạo danh là của đạo Phật. Họ thường sống ẩn dật trong núi non luyện tập
bùa chú thiền định xuất hồn, thiền định luyện tinh khí thần, thiền định luân
xa, thiền định hiển linh vô vi tạo những điều linh hiển kỳ lạ, biến thế giới
tâm tưởng thành thế giới siêu hình đầy dẫy linh hồn người chết, ma quái quỉ, Thần
Thánh, Tiên, Phật, Trời... Đối với những Phật tử những tu sĩ này thường phô
trương tiên đoán chuyện quá khứ vị lai của mọi người, thường làm thầy thuốc
nam, thuốc bắc, hoặc bùa chú, hoặc truyền điển linh luân xa để trị bệnh khiến
cho mọi người mê tín lại càng thêm mê tín hơn.
Họ nói chuyện
toàn là khoe khoang sự xuất hồn đi chu du trong các cõi Tiên, cõi Phật và làm
những điều thần thông quái lạ khiến cho mọi người say mê thích thú và phục lăn
họ, xem họ như Phật sống, như Thần, Thánh, Tiên đang sống tại thế gian vậy. Đó
là những hành động dối gạt, bịp người, làm những điều sai trái phạm vào Giới Luật
của Phật.
Xưa Đức Phật
thường cấm các đệ tử không được thể hiện thần thông, không được làm những điều
kỳ lạ, vì Đức Phật cho những thần thông biến hóa và biết chuyện quá khứ và vị
lai là những trò huyễn hóa lừa đảo người.
Những tu sĩ
này đã biến Phật giáo thành một tôn giáo mê tín dị đoan, và như vậy là xa lìa mục
đích tu hành chân chánh của đạo Phật, khiến cho hàng Phật tử lòng dạ hoang mang
chẳng biết Phật pháp như thế nào đúng và như thế nào sai. Giống như người đứng
trước ngã ba đường, chẳng biết đi ngõ nào.
Hình ảnh Tế
Công Phật sống tức là Tế Điên Hòa Thượng và Phật sống Cựu Kim Sơn, đó là những
hình ảnh tu sĩ ma quái mượn danh nghĩa Phật giáo luyện thần thông trị bệnh làm
những điều mê tín, dị đoan, “Cứu thế độ dân”.
Đó là những
hành động mê hoặc chúng sanh; đó là những hành động phá hoại Giới Luật đức hạnh
giải thoát và những oai nghi tế hạnh của đạo Phật.
Xưa Đức Phật
dạy: “ Này các Tỳ kheo, các Thầy hãy giữ gìn Giới Luật của ta nghiêm túc thì
hàng Phật tử sẽ kính mộ các Thầy, thường quì xuống trải tóc dài trên đường cho
quí Thầy đi”.
Đối với những
hạng tu sĩ ma quái như Tế Điên Tăng và Phật sống Cựu Kim Sơn, hiện giờ có người
vẫn còn tin đó là Phật sống và còn phổ biến kinh sách ca ngợi những hạng người
này.
Họ đâu biết
rằng sự sống chết đau khổ của cuộc đời con người là do nhân quả, không thể có một
Tế Điên Phật sống nào mà cứu họ được. Cho dù có một ngàn Tế Công cũng chẳng cứu
họ được.
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử, đạo Phật là Đạo làm chủ thân tâm, chứ
không phải là Đạo đi tìm sự an lạc tiêu cực trong cuộc sống hoặc đi tìm thần
thông phép lạ.
Hầu hết
quí Phật tử đến chùa tu tập theo đạo Phật là đi tìm dục lạc mới trong tôn giáo
hoặc đi tìm sự an ủi tinh thần trong kinh điển vì cuộc sống ở thế gian quá khổ
sở, quá cay nghiệt, quá phiền toái, hoặc đi tìm thế giới siêu hình để thoả mãn
lòng mơ tưởng của mình.
Chính vì thế
vô tình quí Phật tử đã dùng tiền bạc sai quí Thầy phục vụ tinh thần trong đời sống
của quí vị.
Quí vị cúng
dường bố thí trai tăng là luôn luôn đòi hỏi quí Thầy phải thuyết pháp giảng
kinh hoặc cúng bái, cầu siêu, cầu an, coi bói xem tướng v.v... chứ không bao giờ
quí vị đến cúng dường cho Chư Tăng bằng một tấm lòng cầu mong quí Thầy giữ gìn
Giới Luật thanh tịnh để Tam Bảo được trường tồn.
Quí vị đến
chùa là đến với sự trao đổi, chứ không phải đến với tâm giữ gìn Phật
Pháp.
Còn riêng
quí Thầy, chư Tăng, Ni cũng vì vật chất tiền bạc tình cảm cuộc sống cho nên đã
để Phật giáo bị đồng hóa theo phong tục tập quán của con người.
Từ đó quí Thầy,
quí Cô đã sản xuất ra những loại kinh sách cúng bái, tụng niệm như ca hát giọng
cao, giọng thấp, cúng vong, tiễn linh theo tiếng trống, tiếng kèn, tiếng mõ nhạc
dập dìu du dương ảo não ru lòng người đam mê say thích.
Tăng, Ni tụng
niệm giống như đào kép hát tuồng, khiến cho tín đồ thích thú và còn bày vẽ ra
nhiều điều mê tín lừa đảo tín đồ nữa.
Gần hết các
tu sĩ này đều phạm giới, phá giới luật của Phật. Rồi cũng từ đó quí thầy biên
soạn sản xuất ra những loại kinh sách để an ủi người.
Phật tử khi
đau ốm bệnh tật, khi sân hận thù oán, khi phiền não tái tê, khi ganh tỵ hơn
thua và khi tử biệt phân ly.
Những kinh
sách này không phải để tu hành làm chủ thân tâm giải thoát sanh tử, nó chỉ là
nguồn an ủi tinh thần làm dịu bớt cơn buồn khổ.
Nhờ đó mà
quý Thầy quí Cô mới tiêu thụ được món nợ trai tăng cúng dường của quí Phật tử.
Hay nói cách khác là trao đổi.
Phải nói vì
vật chất tiền bạc tình cảm và cuộc sống của quý Thầy, quý Cô mà đã biến quý Thầy,
quý cô đã trở thành những người phục dịch cho quí Phật tử từ cái ăn cho đến cái
đi chơi và mọi sự của quí Phật tử mà quý Thầy và quý Cô đều phải lo hết.
Do đó quí Thầy
quý Cô phải thức thâu đêm dịch kinh viết sách cho quí Phật tử đọc, quý Thầy,
quý Cô cũng nặng đầu bóp trán suy nghĩ tìm mọi cách tạo ra cây cảnh đẹp đẽ để
cho Phật tử du ngoạn thưởng thức.
Như vậy còn
thì giờ đâu mà quý Thầy quý Cô tu hành. Tu hành không phải là một việc dễ làm,
phải thường hằng tập sửa những sự sai lầm nơi mình.
Phải thường
hằng gìn giữ Giới Luật nghiêm túc cho nên không thể một sớm một chiều mà thành
tựu được. Vì thế quý Thầy đã trở thành những công nhân viên chức của quý Phật tử
mà không hề hay biết.
Kinh sách Phật
được bày bán la liệt không có vẻ tôn nghiêm ngoài hè phố, ngoài lề đường và
cũng vì thế mà người tu theo Phật giáo thời nay rất là hời hợt.
Những Giới
Luật của Phật giáo con người thời đại ngày nay đã quên hết, chỉ còn biết làm
danh làm lợi trên những đống kinh sách này.
Đem hết cuộc
đời và công sức của mình, bỏ hết thì giờ quí báu, thay vì để tu tập giải thoát
khỏi cảnh đời ô trược này thì quí Thầy quí Cô lại chôn mình trong bùn lầy danh
lợi hôi tanh, làm mất giá trị Pháp Bảo của Phật.
Quí Thầy,
quí Cô nghiêm khắc mình trong Giới Luật thực hiện thiền định sâu mầu là quí Thầy
quí Cô đã phổ biến Pháp Bảo quí báu nhất của Phật đến tận hang cùng ngõ hẻm của
con người, chứ không phải việc in kinh viết kinh sách bày bán khắp chợ là phổ
biến Pháp Bảo.
Đó là quí Thầy
quí Cô đã ném Pháp Bảo xuống bùn nhơ hôi thối. Chùa là nơi tu hành
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử, khi nghe chúng tôi nói đến đây quí vị
hãy suy ngẫm lại, chứ đừng vội lên án chúng tôi.
Kính thưa
quí vị kinh sách bày bán la liệt mà người tu bây giờ chẳng ra làm sao!
Ngay chính bản
thân của quí vị tu hành thì quí vị cũng tự biết lấy rất rõ ràng. Kinh sách Phật
là để cho người tu tập giải thoát, chứ không phải để an ủi người đời.
Bởi vậy, Phật
giáo ngày nay không người tu chứng là vậy. Nếu muốn tu giải thoát thì quí vị phải
đến chùa tu hành hẳn hoi, chứ không phải đi lang thang chùa này, chùa khác để
nghe thuyết pháp chơi.
Vả lại chùa
cũng chẳng phải là chỗ để cho quí vị đi chơi ngắm cảnh giải trí an ủi tinh thần.
Nếu quí vị muốn tu thì phải nghiêm chỉnh thực hành đúng như lời của Phật dạy và
nghiêm khắc mình trong kỷ luật của nhà chùa, chứ không phải dùng tiền bạc cúng
dường bố thí trai tăng rồi muốn sai sử quí Thầy cách nào cũng được.
Từ lâu quí vị
đã dùng tiền bạc của mình để an ủi tinh thần mình mà biến Phật giáo thành Thần
giáo, ông Phật thành ông Thần, và quí Thầy trở thành công nhân viên của quí vị
cư sĩ.
Một lần nữa
chúng tôi xin nhắc lại: chùa là nơi để tu hành giải thoát chứ không phải chùa
là nơi để quí vị nghỉ mát, nghỉ hè làm việc mê tín, dị đoan.
Chùa là nơi
để cho Tăng, Ni tu tập giải thoát khỏi sự khổ đau của cuộc đời và chấm dứt tái
sanh luân hồi, chứ không phải là trường học, trạm y tế, Tuệ Tĩnh đường, phòng
thuốc từ thiện xã hội.
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và Phật tử, quí vị đến chùa cốt là để học hỏi những lời
vàng ngọc của Phật, để tu học giải thoát thân tâm để vượt ra khỏi cảnh đời ô
trược, chứ không phải đi tìm cái ăn cái ở trong chùa, đi tìm cái được mạnh giỏi,
đi tìm cái phù hộ, cái gia bị của Đức Phật.
Đó là những
điều mê tín, phi đạo đức, đó là những điều sai không đúng của đạo Phật. Khi đến
chùa quí vị đừng làm bận tâm những người tu hành ở đây, vì cái ăn cái mặc của
quí vị.
Khi đi
đến chùa quí vị đừng để người tu hành phục vụ quí vị mà mất phước. Khi đi đến
chùa quí vị đừng ăn mặc hở hang bày da hở thịt, mặc quần áo màu sắc rực rỡ bông
hoa lòe loẹt.
Khi đi đến
chùa quí vị đừng thoa son đánh phấn như đi dự tiệc tùng đám cưới đám hỏi...
Khi đi đến
chùa quí vị đừng làm ồn náo cười nói phải giữ mình có nết hạnh. Khi đi đến chùa
đừng nghĩ mình có xe hơi, xe gắn máy chạy đậu sát thềm chùa.
Đó là tư
cách thiếu đạo đức quí vị cần sửa lại. Khi đi đến chùa quí vị phải đậu xe ở
ngoài cổng, dắt xe vào phải cởi bỏ giày dép đi chân trần vào chùa và hết lòng cầu
Pháp thì may ra quí vị mới hưởng được Pháp vị của Đức Phật.
Khi đến chùa
quí vị đừng biến chùa thành cái chợ. Xưa vua A Xà Thế đến thăm Đức Phật phải dừng
xe ở đầu rừng rồi đi bộ đến gặp Phật.
Khi đi đến
chùa đừng nghĩ rằng có tiền là có tất cả, đừng ỷ rằng mình có tiền quăng tiền
ra là có đủ loại kinh sách và còn được ưu tiên nghe thuyết giảng các loại kinh,
có biết đâu đó là những bài pháp đầu môi chót lưỡi, chính người thuyết pháp đó
cũng chưa thực hành được.
Những bài
thuyết pháp đó thường bán rẻ mạt ở đầu đường xó chợ. Những bài thuyết pháp này
quí vị có tu ngàn đời cũng chẳng ra gì.
Pháp không cầu
mà có là pháp giả, pháp không cầu mà bày bán la liệt là pháp không có giá
trị tu hành. Pháp ấy là pháp danh, pháp lợi, chứ không phải chân pháp của đạo
Phật.
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử, khi đi đến chùa Tăng, quí vị là nữ cư
sĩ hoặc
Ni cô thì
quí vị nên đi từ hai người trở lên vào Tu viện nam. Là người cư sĩ nam hay chư
Tăng khi đến chùa Ni hoặc tịnh thất của cư sĩ nữ thì quí vị phải đi từ hai người
trở lên chứ không thể đi một người vào chỗ đó được.
Khi đi vào
chỗ tu hành quí vị không thể đi xông pha mà phải đi theo người hướng dẫn, nói
chuyện nhẹ nhàng để giữ gìn sự thanh tịnh cho những người tu hành tại đó.
Khi cần gặp
người quen thì nhờ người tiếp khách gọi hộ chứ không được tự động đến chỗ người
thân ở. Người tu hành ở tại tu viện cũng không được đưa dắt người thân bạn bè
đi tham quan làm động chúng tu hành. Đó là điều làm sai xin quí vị lưu ý.
Người đang
tu hành tại tu viện, ở đâu thì nên ở tại vị trí nấy mà lo tu hành, không được đi
sang khu khác hoặc tự tiện đến thất người khác nói chuyện, hoặc đi kinh
hành trước thất người khác, làm người khác phóng dật, không tu hành được là một
tội rất nặng mà không thể tha thứ được, vì đó là tội phá sự tu hành của mình của
người khác.
Tội ấy chỉ
còn xin Thầy rời khỏi tu viện, chứ không còn mặt mũi nào nhìn ai được.
Cho nên vào
tu viện là vào nơi tu hành thì nên tu hành, còn thấy mình tu không nổi thì xin
về, đừng làm động người khác mà sẽ hối hận suốt đời.
Một cư
sĩ nữ hay một Ni cô khi đến chùa Tăng mà tự do đi lại thì phải biết đó là một
người thiếu đức hạnh phải sửa lại.
Ngược
lại một cư sĩ nam hoặc một vị Tăng cũng vậy không được ngang nhiên đi vào nơi
tu hành tu sĩ nữ.
Vậy khi đến
nơi tu hành xin quí vị lưu ý hãy cẩn trọng chớ xem thường chỗ tu hành như chỗ
du lịch tham quan; chỗ ăn chơi hò hẹn.
Một việc làm
vô ý tức là gây ra tai hại cho mình cho người. Ở trong nhà chúng ta sống sao
cũng được, nhưng chúng ta phải biết đó là những người thiếu đạo đức nhân cách,
thiếu văn hóa lịch sự.
Ngược lại ra
ngoài cũng phải tùy nơi tùy chỗ thì quí vị mới xứng đáng là đệ tử của Phật, đầy
đủ tác phong phẩm chất đạo đức giải thoát của đạo Phật.
Tám năm trời
chúng tôi mở tu viện Chơn Như, chẳng tìm thấy một người cầu pháp chân thật,
toàn là những người làm hao của đàn na thí chủ; làm những điều tồi tệ phá Giới
Luật cống cao ngã mạn, hiêu hiêu tự đắc coi mình là bực Thầy, Tổ của thiên hạ.
Xét lại họ
chỉ toàn là những con mọt sách. Tóm lại Tăng, Ni và Phật tử đối với Phật Pháp
còn biết bao nhiêu điều sai trái nhưng không đủ thì giờ cho phép chúng tôi nêu
ra đây hết được.
Khi nào đủ
duyên Cô Diệu Quang mở khóa tu đạo đức giải thoát thì chúng tôi sẽ giảng dạy
cho quí vị.
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử, chúng tôi biết rằng lời thật mất lòng,
nhưng chúng tôi phải nói.
Nói vì sự tồn
vong của Phật giáo, dù biết rằng chúng tôi nói sẽ không có chùa để ở, không có
cơm để ăn, không có y áo để mặc thì chúng tôi cũng vẫn phải nói.
Nói để cảnh
tỉnh Tăng, Ni và quí vị cư sĩ. Nói để quí vị sửa sai; nói để quí vị không bị đọa
địa ngục ngay cảnh sống thế gian này; nói để cho quí vị hiểu Phật pháp đúng
cách.
Kính thưa
quí vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử, quí vị phải hiểu chúng tôi nói ở đây
không có ý phê phán chỉ trích ai hết.
Ai muốn tu
sao cũng được, chúng tôi chỉ biết nêu lên ở đây những ý nầy để quí vị đừng hiểu
sai đạo Phật, đừng lầm đường lạc lối tu tập sai mục đích của đạo Phật mà uổng
phí thì giờ quí báu của quí vị.
Kính thưa
quí vị, chúng ta là những đệ tử của Phật mà không tu hành theo pháp môn của đạo
Phật, lại đi tu hành theo pháp môn của các tôn giáo khác mà cứ tự nhìn nhận tu
theo đạo Phật.
Sự lầm lạc
này khiến cho Phật giáo không có người tu chứng, không có người giải thoát thật
sự.
Hiện giờ Phật
giáo xem như bị mất gốc chỉ còn cành lá mà thôi.
Cho nên
chúng tôi gióng lên tiếng chuông để cảnh tỉnh quí vị; để nhắc nhở quí vị.
Còn nghe hay
không là quyền của quí vị. Chúng tôi chẳng có ý gì khác hơn.
Tu đúng tu
sai là quí vị nhờ, chứ chúng tôi chẳng có ích lợi gì trong đó cả.
Chúng tôi chỉ
mong quí vị tỉnh ngộ quay về với con đường chân chính của đạo Phật để có sự ích
lợi thiết thực cụ thể hơn.
Những điều
quí vị tu hành và những việc làm của quí vị đều tốt đều thiện, nhưng tốt và thiện
đối với Tôn giáo khác, còn đối với Phật giáo thì quí vị đã lầm lạc.
Bởi quí vị
đã không tu Giới Luật mà còn phá Giới Luật, làm những điều sai trái phạm vào Giới
Luật, trong khi Giới Luật là ông Thầy mà quí vị từ bỏ không chịu tu theo.
Chúng tôi
cũng không biết nói thế nào nữa cho đúng. Nếu đi tu mà không chịu nghe lời dạy,
không chịu nương tựa vào ông Thầy của mình thì quí vị sống với ai, tu tập cái
gì?
Nếu chúng
tôi tu tập giới luật, thiền định, trí tuệ của đạo Phật mà không có kết quả như
ngày hôm nay thì chúng tôi cũng chẳng nói lên đây làm gì.
Vì có kết quả
quá rõ ràng. Cho nên chúng tôi cho nổi cơn sấm sét để quí vị tỉnh cơn mơ mộng
trong các kinh sách thời nay, trong các pháp tu thời nay.
Kính
thưa quí vị tu sĩ Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử, quí vị hãy cùng chúng tôi sửa sai
lại những gì quí vị đã từ lâu không biết, đã làm sai.
Quí vị hãy
chấm dứt, đừng vì lợi ích nhỏ mọn, ích kỷ cá nhân tầm thường mà làm tổn hại Phật
Pháp. Bấy lâu nay cũng vì hiểu sai Phật Pháp, tu sai mà tưởng là bồi đắp xây dựng
Phật Pháp.
Vì thế dầu
quí vị có tìm khắp nơi trên thế giới cũng không tìm ra một bậc tu chứng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét