123-PHÁP TU CỦA PHẬT LÀM CHỦ SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT: TỨ NIỆM XỨ/ 1
Khi tu tập Tứ
Chánh Cần thuần thục thì không còn ác pháp tới lui nữa, đức Phật cảm nhận thân
tâm mình tham, sân, si giảm bớt thấy rất rõ ràng; đồng thời trạng thái tâm bất
động, thanh thản, an lạc và vô sự rõ ràng hơn, và mỗi ngày đức Phật càng tăng
thời gian kéo dài thêm trạng thái đó.
Lúc bấy giờ,
đức Phật thấy tâm mình rất lạ lùng: là luôn luôn cảm nhận toàn thân tâm của
mình trong hơi thở ra và hơi thở vào, từ canh này sang canh khác, không có một
niệm nào xen vào; không một ác pháp nào khởi ra được. Nhất là các ác pháp bên
ngoài không tác động vào được thân tâm. Do trạng thái này, đức Phật không còn
phải ngăn, diệt dục và ác pháp như trong pháp môn tu tập TỨ CHÁNH CẦN.
Khi tu tập
pháp môn Tứ Chánh Cần thì niệm dục và ác pháp khởi liên tục, còn
bây giờ thì khác xa, tâm không có bất kỳ một niệm ác hay dục khởi lên một cách
rất tự nhiên, chớ không phải còn gò bó ra công tu tập như ngày xưa nữa.
Với cách
quán xét thân, thọ, tâm, pháp như vậy, từ ngày này sang ngày khác, chỉ duy nhất
có một cảm nhận quán xét trên toàn thân. Khi trạng thái này xuất hiện thì sự tu
tập TÂM BẤT ĐỘNG của đức Phật rất dễ dàng và thoải mái.
Suốt thời
gian còn lại hơn 7 ngày, trong 49 ngày tu tập dưới cội bồ đề, đức Phật thấy rất
rõ tâm mình có một cảm nhận trên thân quán thân như vậy, không có một tâm niệm
nào khác nữa. Trong suốt 7 ngày đêm mà đức Phật tưởng chừng như trong một khoảng
thời gian rất ngắn, chỉ hơn một phút. Ở trạng thái tâm này kéo dài cho đến khi
tâm VÔ LẬU hoàn toàn; nhờ tâm vô lậu hoàn toàn nên mới có đầy đủ TỨ THẦN TÚC.
Đó là lúc chứng đạo giải thoát.
Từ trạng
thái tu tập tâm này, đức Phật mới đặt cho nó một cái tên đúng nghĩa quán bốn chỗ
của nó: “TỨ NIỆM XỨ”.
Khởi đầu đức
Phật tu tập SƠ THIỀN của ngoại đạo, nhưng do sáng kiến biết sáng tạo ra những
pháp tu hành để ly dục, ly ác; làm chủ sinh, già, bệnh, chết; tức là làm chủ
thân tâm; và cuối cùng đức Phật thành tựu tâm VÔ LẬU bằng pháp
môn TỨ NIỆM XỨ, chứ không phải nhập Sơ Thiền theo pháp môn của ngoại đạo.
Bởi vậy,
pháp môn Tứ Niệm Xứ chỉ có đạo Phật mới có, còn tất cả các tôn giáo khác đều
không có pháp môn này. Tại sao lại gọi là TỨ NIỆM XỨ?
Tứ Niệm Xứ
có nghĩa là bốn nơi dùng để quán xét; nó gồm có:
1- THÂN
là phần cơ thể: đầu, mình, hai tay và hai chân;
2- THỌ là
các cảm thọ của thân và tâm;
3- TÂM là
phần sáu thức tiếp xúc sáu trần;
4- PHÁP
là thân, thọ, tâm và sáu trần đang xung quanh chúng ta.
Trong bốn
nơi này, chỉ cần quán xét một nơi là quán xét tất cả bốn nơi, cho nên mới gọi
là TỨ NIỆM XỨ.
Trên Tứ
Niệm Xứ có ba giai đoạn tu tập:
1- TỨ
CHÁNH CẦN tu tập trên Tứ Niệm Xứ; (Giai đoạn này người mới tu vẫn tu tập được, và tu tập
như vậy mới có căn bản)
2- TỨ NIỆM
XỨ tu tập trên Tứ Niệm Xứ; (Giai đoạn rất khó tu, nếu mất căn bản thì không nhiếp phục
được tham ưu trên thân, thọ, tâm và pháp)
3- THÂN
HÀNH NIỆM tu tập trên Tứ Niệm Xứ. (Giai đoạn này là giai đoạn cuối cùng của Tứ Niệm Xứ,
nó chuyên tu tập lệnh để thực hiện Tứ Như Ý Túc)
TỨ CHÁNH CẦN
tu tập trên Tứ Niệm Xứ là phương pháp tu tập lớp Chánh Tinh Tấn, lớp thứ 6
trong Bát Chánh Đạo; còn TỨ NIỆM XỨ tu tập trên Tứ Niệm Xứ là phương pháp tu tập
lớp thứ bảy, tức là lớp CHÁNH NIỆM trong Bát Chánh Đạo. Lớp thứ bảy là lớp tu
chứng đạo của Phật giáo. Ngoài pháp môn TỨ NIỆM XỨ thì không có pháp nào tu chứng
đạo giải thoát được.
Bởi trên Tứ
Niệm Xứ có ba giai đoạn tu tập, cho nên có những bài kinh đức Phật dạy tu tập Tứ
Niệm Xứ, nhưng đó là dạy tu tập TỨ CHÁNH CẦN trên Tứ Niệm Xứ. Đây, chúng ta hãy
lắng nghe Phật dạy: “Những tỳ kheo nào, này các tỳ kheo, mới xuất gia
tu chẳng bao lâu, mới đến trong những pháp luật này; những tỳ kheo ấy, này các
tỳ kheo, cần phải được khích lệ (samàdapetabbà), cần phải được hướng dẫn, cần
phải được an trú, tu tập Bốn Niệm Xứ (thân, thọ, tâm, pháp): Hãy chuyên chú với
tâm thanh tịnh, định tỉnh, nhất tâm, để có chánh trí như thật đối với các
pháp”. (Tương Ưng Bộ V, [47] chương III - Tương Ưng Niệm Xứ, phẩm I -
Ambapàli)
Cho nên người
mới xuất gia vẫn tu tập pháp môn Tứ Niệm Xứ, nhưng phải tu tập ở giai đoạn đầu
là TỨ CHÁNH CẦN trên Tứ Niệm Xứ.
Bởi vậy, nếu
một người không có tu tập thì không thể nào hiểu được pháp môn Tứ Niệm Xứ, và
cũng không hiểu được Giới Luật.
Thưa các bạn!
Các bạn muốn biết rõ pháp môn TỨ NIỆM XỨ thì hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Một
thời, Thế Tôn ở Vesàli tại rừng Ambapàli. Ở đây, Thế Tôn gọi các tỳ kheo: Này
các tỳ kheo, tỳ kheo cần phải trú Chánh Niệm Tĩnh Giác. Đây là
lời giáo giới của Như Lai cho các thầy.
Và này
các tỳ kheo, thế nào là tỳ kheo Chánh Niệm? - Ở đây, này các tỳ kheo, tỳ
kheo trú quán thân trên thân, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham
ưu ở đời; trú quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh niệm,
nhiếp phục tham ưu ở đời; trú quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh niệm,
nhiếp phục tham ưu ở đời; trú quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tĩnh giác
chánh niệm nhiếp phục tham ưu ở đời. Như vậy, này các tỳ kheo, là tỳ kheo Chánh
Niệm”. (Trung Bộ I, kinh Niệm Xứ)
Đoạn kinh
trên đây dạy chúng ta cách thức chánh niệm, tức là học lớp Chánh Niệm. Vậy
CHÁNH NIỆM là gì?
Theo đoạn
kinh này, thì Chánh Niệm là niệm THANH THẢN, AN LẠC và VÔ SỰ. Niệm thanh thản,
an lạc và vô sự hiện tiền trên bốn chỗ Thân, Thọ, Tâm, Pháp thì tà niệm không
bao giờ xen vào được. Nếu tà niệm xen vào được thì tức khắc phải nhiếp phục,
không được để chúng tác động vào thân, thọ, tâm và pháp.
Như đã nói ở
phần Tứ Chánh Cần, TÀ NIỆM là các niệm dục và ác pháp trên thân tâm. Nhưng sang
giai đoạn tu tập Tứ Niệm Xứ, thân tâm chỉ còn các tà niệm vi tế, chứ không còn
các tà niệm thô như lúc mới tu tập ngăn ác, diệt ác pháp.
Vậy còn TRÊN
THÂN QUÁN THÂN là như thế nào?
Trên thân
quán thân có nghĩa là dùng mắt nhìn thấy, tai lắng nghe, thân cảm nhận xúc chạm
và ý thức quan sát ngay trên thân. Nếu thân có đau nhức chỗ nào liền biết ngay,
thân đi biết thân đi, thân ngồi biết thân ngồi, thân nằm biết thân nằm, thân đứng
biết thân đứng, v.v…
Tuy nói trên
thân quán thân, nhưng thật sự là đang quán bốn chỗ: thân, thọ, tâm và
pháp; vì biết thân là biết thọ, biết thọ là biết tâm, biết tâm là biết
pháp, biết pháp là biết thân. Cho nên trên TỨ NIỆM XỨ, biết chỗ này
thì liền biết chỗ khác; bốn chỗ này như một khối; tuy nói bốn nhưng mà một.
Quán thân
trên thân, tức là tâm tỉnh thức trên thân, nên thân xảy ra một điều gì dù lớn lao hay nhỏ
nhặt tâm đều biết rất rõ. Cho nên nói trên thân quán thân, chớ kỳ thực là quán
TÂM BẤT ĐỘNG. Nếu Tâm Bất Động suốt bảy ngày đêm là tu tập chứng đạo, còn ngược
lại, trong bảy ngày đêm tâm thường bị hôn trầm, thùy miên, vô ký và loạn tưởng
thì nên dùng pháp NGĂN ÁC, DIỆT ÁC, để mà diệt các ác pháp này.
Bởi vậy,
pháp môn TỨ NIỆM XỨ là một pháp môn tu tập để chứng đạo. Pháp môn này rất quan
trọng, nếu ai không tu tập nó thì không bao giờ chứng đạo. Cho nên chúng ta cần
phải thông suốt đường lối tu tập như thế nào đúng và như thế nào sai.
Một lần nữa
chúng tôi xin nhắc các bạn: phải tu tập pháp môn TỨ CHÁNH CẦN rồi sau mới tu tập
đến pháp môn TỨ NIỆM XỨ; nếu không biết thì đừng nên tu tập, bởi có tu tập cũng
chỉ uổng công mà thôi.
Các bạn đừng
nghe nói pháp môn TỨ NIỆM XỨ mà ham tu cao. Pháp môn này dành cho những
bậc GIỚI LUẬT nghiêm túc, dành cho những bậc tâm đã BẤT ĐỘNG trước các ác pháp
và các cảm thọ, chớ không phải pháp môn này bất cứ ai muốn tu tập là đều
tu tập được. Nếu các bạn tu tập mà không biết khả năng trình độ của
mình thì đó là tu tập sai pháp, xin quý vị cần lưu tâm.
Bất cứ thân
làm điều gì đều biết: thân ăn biết thân ăn, thân ngủ biết thân ngủ, thân quét
sân biết thân quét sân, thân nhặt rau biết thân nhặt rau, thân ngồi yên biết
thân ngồi yên, và khi thân ngồi yên bất động thì biết hơi thở ra, hơi thở vô
trên thân. Tất cả hành động đều được xem là trên thân quán thân. Dù quán hơi thở
ra, hơi thở vô cũng chính là trên thân quán thân.
Trên thân
quán thân được như vậy là phải có sức tỉnh thức. Đây, chúng ta hãy nghe đức Phật
dạy cách thức tu tập tỉnh thức: “Và này các tỳ kheo, thế nào là tỳ kheo
tĩnh giác? - Ở đây, này các tỳ kheo, tỳ kheo tĩnh giác khi đi tới, đi lui; tĩnh
giác khi ngó tới, ngó lui; tĩnh giác khi co tay, duỗi tay; tĩnh giác khi mang
áo sanghati (tăng già lê), mang bát, mang y; tĩnh giác khi ăn, uống, khi nhai,
nếm; tĩnh giác khi đại tiện, tiểu tiện; tĩnh giác khi đi, đứng; khi ngồi, nằm,
khi thức, khi nói, khi im lặng đều tĩnh giác. Này các tỳ kheo, như vậy tỳ kheo
sống tĩnh giác”. (Trung Bộ I, Kinh Niệm Xứ)
Đoạn kinh
trên đây đã xác định sự tĩnh giác trên thân hành của chúng ta. Vậy, THÂN HÀNH của
chúng ta là gì?
Thân hành của
mỗi người được chia ra làm hai phần:
1- Thân
hành nội (hơi thở);
2- Thân
hành ngoại (tất cả mọi sự hoạt động của thân).

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét