124-PHÁP TU CỦA PHẬT
LÀM CHỦ SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT: TỨ NIỆM XỨ/ 2
Thân hành hoạt
động gồm có ba nơi:
1- Thân
2- Miệng
3- Ý
Như vậy, muốn
tĩnh giác trên thân hành thì các bạn hãy phản tỉnh lại thân, miệng, ý của mình.
Khi phản tỉnh lại thân, miệng, ý của mình là các bạn hãy chủ động điều khiển
thân hành, khẩu hành và ý hành; khiến cho thân hành, khẩu hành, ý hành của các
bạn không có lỗi lầm. Thân hành, Khẩu hành, Ý hành của các bạn không có
lỗi lầm tức là Chánh Niệm; còn có lỗi lầm là có Tà Niệm.
Bài kinh này
đức Phật dạy chúng ta phải phản tỉnh lại thân hành, khẩu hành và ý hành; nói
chung là dạy chú ý tất cả các hành động của thân. Đó là tĩnh giác. Nhưng nếu
nghe như vậy, rồi các bạn tu tập chỉ lo chú ý tập trung trên thân hành
một cách ức chế tâm cho hết niệm khởi, thì đó là một điều tu sai lệch pháp hết
sức. Đó là các bạn đã hiểu sai, biến pháp xả tâm của Phật
thành pháp ức chế.
Đức Phật rất
sợ chúng ta tu tập Tứ Niệm Xứ lầm lạc thì tai hại không lường được về hậu quả.
Bởi vì pháp môn Tứ Niệm Xứ là một pháp môn độc nhất để đưa con người có đủ năng
lực làm chủ nhân quả, tức là làm chủ mọi sự hoạt động của chúng ta hằng ngày; tức
là như lời đức Phật dạy ở đoạn kinh trên: “Tỳ kheo phải sống an trú
chánh niệm tĩnh giác”.
Cho nên
chúng ta hãy hiểu cho rõ ràng, để biết cách sống AN TRÚ CHÁNH NIỆM TĨNH GIÁC mà
không sai lầm trên pháp môn Tứ niệm Xứ. Đây, xin các bạn hãy lắng nghe đức Phật
dạy tiếp: “Vậy này các tỳ kheo, các thầy phải gội sạch hai pháp cơ bản
về các thiện pháp, và thế nào là hai pháp cơ bản về các thiện pháp? - Chính là
Giới khéo thanh tịnh và Tri kiến chánh trực. Này các tỳ kheo, khi nào
các thầy được Giới khéo thanh tịnh và Tri kiến chánh trực, các thầy hãy y cứ
trên giới, an trú trên giới tu tập Bốn Niệm Xứ: thân, thọ, tâm, pháp”.
(Tương Ưng Bộ V, chương 3, phẩm Ambapàli)
Đoạn kinh
trên dạy rất rõ ràng: “Giới luật và Tri kiến”. Bởi vậy, muốn
khắc phục những tham ưu trên thân, thọ, tâm và pháp thì phải y cứ trên GIỚI LUẬT,
sống không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào, thì mới mong đẩy lui các chướng ngại pháp
trên đó (khắc phục tham ưu).
Thưa các bạn!
Trong kinh Ước Nguyện, đức Phật cũng đã nhắc nhở chúng ta rất nhiều về giới luật,
vì giới luật rất quan trọng trên con đường tu tập giải thoát: muốn ước nguyện kết
quả một điều gì trong sự tu tập thì giới luật phải nghiêm chỉnh. Ở đây, tu tập
Tứ Niệm Xứ đức Phật cũng dạy chúng ta lấy GIỚI LUẬT và TRI KIẾN làm nền tảng
cho sự nhiếp phục những tham ưu trên TỨ NIỆM XỨ; nghĩa là muốn đẩy lui
những sự khổ đau trên thân, thọ, tâm và pháp, thì giới luật phải nghiêm chỉnh. Giới
luật nghiêm chỉnh thì tri kiến thanh tịnh, tri kiến thanh tịnh thì giới luật mới
nghiêm chỉnh; giới luật làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh giới
luật. Đó là nền tảng vững chắc để chúng ta tu tập Tứ Niệm Xứ mà làm chủ bốn sự
đau khổ: sanh, già, bệnh, chết của đời người.
Bởi vậy,
pháp môn Tứ Niệm Xứ là ngọn đèn soi sáng, là chỗ nương tựa vững chắc cho chúng
ta. Đây, các bạn hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ những lời đức Phật nhắc nhở ông A
Nan: “Này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình
nương tựa chính mình, chớ nương tựa một điều gì khác; dùng chánh pháp làm ngọn
đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một điều gì khác. Này
Ananda, thế nào là tỳ kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự
mình nương tựa chính mình, không nương tựa một điều gì khác; dùng chánh pháp
làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều gì
khác?
Ở đây,
này Ananda, tỳ kheo trú quán thân trên thân, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh
niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; trú quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm,
tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; trú quán tâm trên tâm, nhiệt
tâm, tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; trú quán pháp trên các
pháp, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Như vậy, này
Ananda, tỳ kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa
chính mình, không nương tựa một điều gì khác; dùng chánh pháp làm ngọn đèn,
dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều gì khác”. (Trường
Bộ I, kinh Đại Bát Niết Bàn)
Các bạn có
nghe chăng? Tứ Niệm Xứ là ngọn đèn chánh pháp, là chỗ nương tựa vững chắc cho
các bạn. Như vậy, Tứ Niệm Xứ đúng là một pháp môn rất quý báu, nên đức Phật lặp
đi lặp lại nhiều lần để chúng ta đừng quên pháp môn này.
Ở đoạn kinh
trên, đức Phật dạy chúng ta 2 điều:
1- Lấy
mình làm ngọn đèn, làm chỗ nương tựa vững chắc, là ý muốn dạy điều gì đây?
Xin thưa
cùng các bạn! “Tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính
mình, không nương tựa một điều gì khác”. Để thấu rõ và xác định ý nghĩa của câu
này, chúng tôi xin lặp lại: “Tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương
tựa chính mình”. Đó là Tri kiến của chúng ta đấy các bạn ạ!
2- Dùng
chánh pháp làm ngọn đèn soi sáng, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không
nương tựa một điều gì khác, là ý Phật muốn dạy pháp môn gì đây?
Xin thưa
cùng các bạn! Đó là Giới đức, Giới hạnh, Giới hành và pháp môn Tứ Niệm
Xứ. Đọc đến những đoạn kinh trên đây, chắc các bạn đã thấu hiểu và
phân biệt chánh pháp của Phật là pháp nào, còn tà pháp của ngoại đạo là pháp
nào. Nếu không có những lời xác định chánh pháp của Phật, thì đứng trước rừng
kinh sách hiện giờ, các bạn dễ rơi vào kiến giải tưởng của ngoại đạo.
Như chúng
tôi đã nói ở đoạn trước, nếu một người không có tu tập thì không thể nào hiểu
được pháp môn Tứ Niệm Xứ, và cũng không hiểu được Giới Luật. Bởi vì trong khi
trên TỨ NIỆM XỨ có ba giai đoạn tu tập, thì Giới đức, Giới hạnh
và Giới hành cũng là ba hành động đạo đức hàng ngày để tu tập GIỚI
LUẬT.
Thực hiện giới
luật là phải luôn luôn thực hiện với tri kiến, cho nên kinh dạy: “Giới
luật ở đâu là tri kiến ở đó, tri kiến ở đâu là giới luật ở đó; giới luật làm
thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh giới luật”. Nếu người
tu sĩ và người cư sĩ không thực hiện giới luật nghiêm chỉnh, còn vi phạm những
lỗi nhỏ nhặt, không thấy xấu hổ và sợ hãi thì tu Tứ Niệm Xứ chẳng bao giờ có kết
quả rốt ráo; chỉ hoài công vô ích mà thôi, uổng phí một đời tu.
Ngoại đạo
không bao giờ có pháp môn Tứ Niệm Xứ, cho nên ngoại đạo không có ai tu chứng đạo
giải thoát. Nhờ có pháp môn Tứ Niệm Xứ, nên ngoại đạo không thể lừa dối phật tử,
lấy pháp môn của mình cho là pháp môn của Phật được.
Tóm lại, khi
tu hành theo Phật giáo thì không nên tu tập bất cứ một pháp môn nào khác, mà chỉ
nên tu tập Tri Kiến, Giới Luật và Tứ Niệm Xứ.
Trước khi nhập
diệt, đức Phật đã di chúc: “Sau khi Ta nhập diệt, các vị tỳ kheo hãy lấy
GIỚI LUẬT và GIÁO PHÁP của Ta mà làm THẦY”. Giáo pháp mà Ngài đã di
chúc ở đây là pháp môn TỨ NIỆM XỨ.
Pháp môn Tứ
Niệm Xứ là pháp môn nhiếp tâm BẤT ĐỘNG cuối cùng của Phật giáo,
vì chính người tu tập sống được với tâm Bất Động là đã chứng đạo; ở đây không
còn tu pháp môn nào khác nữa. Cho nên, pháp môn Tứ Niệm Xứ được xem là pháp môn
tu tập cuối cùng của Phật giáo, gọi là CHÁNH NIỆM. Nơi đây tất cả năng lực làm
chủ thân tâm sẽ được xuất hiện trên mảnh đất Bất Động; BẢY GIÁC CHI cũng xuất
hiện đầy đủ trên tâm Bất Động này. Vì thế, quý vị đừng vội vàng tu tập Tứ Niệm
Xứ, mà nên xét lại tâm mình đã Bất Động chưa; nếu tâm BẤT ĐỘNG thì mới
tu tập TỨ NIỆM XỨ, còn chưa thì nên trở lại tu tập pháp môn TỨ CHÁNH CẦN.
Vì vậy, xin
quý vị đừng hiểu rằng 49 ngày đức Phật ngồi dưới cội bồ đề là tu tập Bốn Thiền,
tức là từ Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền của ngoại đạo. Sự thật,
trong gần hết 6 tuần đầu, đức Phật tu tập ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng
trưởng thiện pháp trong pháp môn TỨ CHÁNH CẦN. Kế đó, hơn 7 ngày cuối cùng, đức
Phật an trú tự nhiên trên TỨ NIỆM XỨ để quét sạch các tà niệm vi tế của thân
tâm, cho đến khi BẢY GIÁC CHI sung mãn thì TỨ THẦN TÚC và TAM MINH xuất hiện; một
kết quả tâm VÔ LẬU hoàn toàn. Đến đây, chặng đường tu hành làm chủ sinh, già, bệnh,
chết của đức Phật đã thành công.
HẾT

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét