151-MUỐN CHỨNG ĐẠO PHẢI
TU PHÁP MÔN NÀO: GIỚI NIỆM HƠI THỞ VÔ HƠI THỞ RA
Bắt đầu học,
tu tập và muốn đạt được một đời sống giới hạnh Niệm Hơi Thở Ra, Hơi Thở Vô
nghiêm chỉnh, thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh và giới hành của hơi thở.
Vậy Giới Đức, Giới Hạnh và Giới Hành của giới hành niệm hơi thở ra, hơi thở vô
là gì?
Giới Đức Niệm
Hơi Thở Ra, Hơi Thở Vô là những lời dạy đạo đức về đời sống đạo đức của con người
trong hơi thở, tức là CHÁNH KIẾN.
Giới Hạnh Niệm
Hơi Thở Ra, Hơi Thở Vô là những lời dạy về hành động đạo đức, thường thể hiện
qua giới hành niệm hơi thở ra, hơi thở vô như: nói, nín, tiếp
giao với mọi người, v.v… đều nương vào HƠI THỞ TĨNH GIÁC mà tiếp giao, nhớ đừng
bao giờ quên hơi thở, như vậy được gọi là Chánh Tư Duy.
Trước khi muốn
tu tập về Giới Hành Niệm Hơi Thở Ra, Hơi Thở Vô, thì các bạn hãy lắng nghe lời
đức Phật dạy La Hầu La. La Hầu La là người con trai duy nhất của đức Phật. Đây
là lời dạy La Hầu La tu tập ĐỊNH NIỆM HƠI THỞ của đức Phật: “Này La
Hầu La, hãy tu tập sự tu tập về niệm hơi thở vô, hơi thở ra, làm cho sung mãn,
nên được quả lớn, được lợi ích lớn.
Và này
La Hầu La, thế nào là tu tập niệm hơi thở ra, hơi thở vô làm cho sung mãn, nên
được quả lớn, được lợi ích lớn?”. (Trung Bộ kinh, trang 329, kinh Giáo giới La Hầu La)
Ở đây, lời dạy
này có những danh từ khó hiểu như: làm cho sung mãn, được quả lớn, được lợi ích
lớn. Vậy làm cho sung mãn như thế nào? Được quả lớn, được lợi ích lớn như thế
nào?
Chữ SUNG MÃN
có nghĩa là đầy đủ, sung túc, tràn đầy, dư thừa không thiếu hụt. Tóm lại, trước
khi thực hiện nghĩa này, thì phải tập an trú tâm trọn vẹn trong hơi thở. An
trú tâm trọn vẹn trong hơi thở tức là biết hơi thở vô, hơi thở ra một cách nhẹ
nhàng, tự nhiên, thoải mái, an lạc. Đó là làm cho tràn đầy,
sung túc, dư thừa, không thiếu về niệm hơi thở.
Quả lớn
là gì?
QUẢ LỚN có
nghĩa là kết quả to lớn của sự tu tập về hơi thở vô, hơi thở ra. Quả lớn còn
nghĩa là kết quả của sự tu tập đạt được sự giải thoát một cách cụ thể rõ ràng,
hay nói cách khác là làm chủ được sanh, già, bệnh, chết, tức là TÂM BẤT ĐỘNG
trước các pháp và các cảm thọ.
Được lợi
ích lớn là gì?
LỢI ÍCH LỚN
có các nghĩa là:
1- Đời sống
được an vui, hạnh
phúc, không có ác pháp nào làm dao động được tâm; tâm luôn luôn thanh thản, an
lạc và vô sự, thường thản nhiên trước mọi dục lạc thế gian, mọi sự cám dỗ vật
chất, mọi ác pháp, v.v…
2- Làm chủ
được tuổi già, có
nghĩa là khỏe mạnh, quắc thước như một thanh niên cường tráng.
3- Làm chủ
được mọi bệnh tật, không
sợ ốm đau như người thường tục.
4- Làm chủ
được sự sống chết, muốn
sống thì sống, muốn chết thì chết.
5- Chấm dứt tái sanh luân hồi.
Trên đây là
năm điều lợi ích lớn, của kiếp sống làm người do tu tập hơi thở vô, hơi thở ra.
Vậy, trước
khi muốn tu tập Giới Hành Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra, thì chúng ta hãy lắng nghe đức
Phật dạy La Hầu La: “Ở đây, này La Hầu La, vị tỳ kheo đi đến khu rừng,
đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống và ngồi kiết già, lưng thẳng và an
trú chánh niệm trước mặt. Tĩnh giác, vị ấy thở vô, biết thở vô; vị ấy thở ra,
biết thở ra”.
Đọc đoạn
kinh này, chúng ta cần lưu ý những từ sau đây: khu rừng, gốc cây, ngôi nhà trống,
ngồi kiết già, lưng thẳng, an trú chánh niệm trước mặt, tĩnh giác.
Vậy khu rừng,
gốc cây, ngôi nhà trống là ĐỊA ĐIỂM ĐỂ TU TẬP, có nghĩa là tìm nơi chốn yên tịnh,
vắng vẻ để tu tập hơi thở vô, hơi thở ra. Nếu địa điểm không tìm được như trên
đức Phật đã dạy, thì sự tu tập về hơi thở vô, hơi thở ra rất khó khăn. Các phật
tử lưu ý những lời dạy này, vì nó rất cần thiết cho sự tu tập của quý vị, xin
quý vị nên nhớ kỹ. Quý vị đừng cho rằng bất cứ nơi đâu tu cũng được, thì đức Phật
dạy điều này để làm gì? Có quan trọng đức Phật mới dạy như vậy. Đừng nghe theo
những lời chỉ dẫn suông: “Bất cứ chỗ nào tu cũng được, tu trong bốn oai
nghi, tu trong công việc làm”. Lời nói này đi ngược lại lời dạy của đức
Phật.
Ngồi kiết
già là gì?
NGỒI KIẾT
GIÀ là tư thế ngồi xếp bằng tréo hai chân đan vào nhau. Đó là tư thế ngồi của
người tu thiền định. Tư thế ngồi này rất vững chắc để thân tâm dễ gom vào một đối
tượng thân hành nội (hơi thở).
Những hành động
như đi, đứng, nằm, ngồi, co tay, duỗi chân, ngước nhìn, nói nín, ăn, nhai nuốt,
hơi thở vô, hơi thở ra, v.v… đều là thân hành, nhưng phải rõ tất cả thân hành
của thân là thân hành ngoại, chỉ trừ có hơi thở là thân hành nội. Như vậy,
chúng ta phải hiểu rõ mới có thể tu tập được.
An trú
chánh niệm là gì?
AN TRÚ
CHÁNH NIỆM là ở yên ổn trong niệm chân chánh. Niệm chân chánh là gì?
Trong đạo
Phật có bốn chỗ niệm chân chánh:
1- Niệm thân
2- Niệm thọ
3- Niệm tâm
4- Niệm pháp
Chữ “chánh
niệm” ở đây gồm chung có 4 niệm, như vậy, an trú chánh niệm tức là an trú trong
bốn niệm. Vậy an trú bốn niệm một lần có được không? - An trú bốn niệm một lần
là tu tập TỨ NIỆM XỨ. Cho nên, Tứ Niệm Xứ còn gọi là CHÁNH NIỆM.
Chánh niệm tức là pháp môn tu tập thứ bảy trong Bát Chánh Đạo. Cho nên, tu tập
Tứ Niệm Xứ là tu tập LỚP THỨ BẢY trong tám lớp tu học của Phật giáo.
Khi một người
tu tập xong Tứ Niệm Xứ thì có ĐỊNH NHƯ Ý TÚC. Nhờ có Định Như Ý Túc nên mới nhập
được TỨ THÁNH ĐỊNH. Nếu không có Định Như Ý Túc thì không bao giờ nhập định của
Phật giáo được. Vì thế, các tà sư ngoại đạo đều nhập định, nhưng định ấy không
phải là Chánh Định của Phật giáo, mà của tà đạo bàng môn.
Người tu
hành theo Phật giáo phải rõ Bát Chánh Đạo. BÁT CHÁNH ĐẠO chia làm ba cấp tu học:
1- Cấp Giới
Luật
2- Cấp Thiền
Định
3- Cấp Tuệ
Tam Minh
Cấp GIỚI
LUẬT gồm có năm lớp học giới luật:
1- Chánh kiến
2- Chánh tư
duy
3- Chánh ngữ
4- Chánh
nghiệp
5- Chánh mạng
Cấp THIỀN ĐỊNH gồm có hai lớp:
1- Chánh
tinh tấn (TỨ CHÁNH CẦN)
2- Chánh niệm
(TỨ NIỆM XỨ)
Cấp TAM
MINH gồm có TỨ THÁNH ĐỊNH:
1- Sơ Thiền
2- Nhị Thiền
3- Tam Thiền
4- Tứ Thiền
Con đường tu
tập của Phật giáo có ba cấp: GIỚI, ĐỊNH, TUỆ ai ai cũng biết, nhưng mỗi cấp đều
có pháp môn tu tập rất rõ ràng, nếu chúng ta không dựa vào BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ
ĐẠO thì chúng ta chẳng biết pháp nào tu tập.
Cho nên, người
nào muốn tu tập thì phải theo Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo mà tu tập. Chính xét Ba
Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo mà chúng ta biết kinh sách Đại thừa và Thiền tông không
phải là kinh sách của Phật giáo, mà đó là kinh sách chịu ảnh hưởng của tư tưởng
Khổng giáo và Lão giáo của nước ngoài. Vì thế, người tu theo Phật giáo Đại thừa
không bao giờ làm chủ sinh, già, bệnh, chết được.
Dù Đại thừa
Bắc tông, hay Phật giáo nguyên thủy Nam tông mà lấy pháp môn Tứ Niệm Xứ tu tập
hay dạy người mới tu, đó là những người chưa có kinh nghiệm tu hành trên pháp
môn Tứ Niệm Xứ. Bởi vậy, khi đến trường thiền của các sư
Nam tông Miến Điện, thấy cách thức hướng dẫn phật tử tu tập Tứ
Niệm Xứ, là biết ngay các sư thầy này chưa hiểu biết đây là pháp môn thứ mấy
trong Bát Chánh Đạo, cho nên mới dám dạy phật tử tu tập như vậy. Nhận xét điều
này, chúng tôi biết ngay các sư Miến Điện Nam tông chưa thông suốt pháp môn Tứ
Niệm Xứ.
Tứ Niệm Xứ
là pháp môn tu tập trong LỚP THỨ BẢY của BÁT CHÁNH ĐẠO, vậy mà người mới tu tập
đem ra dạy, thật là các sư thầy chưa có kinh nghiệm tu hành chút nào cả, chỉ ở trên kinh sách chữ nghĩa
mà dạy tu tập, vì thế lấy bốn chỗ THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP trên thân mà tu tập, biến
Tứ Niệm Xứ trở thành pháp môn ức chế ý thức. Đức Phật không có dạy ức chế ý thức
cho hết vọng tưởng, mà dạy ly dục ly ác pháp để tâm Bất Động, Thanh Thản, An Lạc
và Vô Sự. Như vậy rõ ràng Phật dạy tu tập khác, các thầy tổ dạy tu tập khác. Do
tu tập sai khác như vậy nên không ai tu tập làm chủ sinh, già, bệnh, chết được.
Cho nên cũng
tu tập Tứ Niệm Xứ, mà Đại thừa và nguyên thủy Nam tông không làm chủ sự sống chết.
Ngoài bốn niệm:
THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP, còn có niệm nào khác nữa không?
Trên THÂN
gồm có hai niệm:
1- Thân hành
niệm nội
2- Thân hành
niệm ngoại
Trên THỌ
gồm có ba niệm:
1- Niệm thọ
lạc
2- Niệm thọ
khổ
3- Niệm thọ
bất lạc bất khổ
Trên TÂM
gồm có hai niệm:
1- Niệm tịnh
2- Niệm động
Trên PHÁP
gồm có hai niệm:
1- Niệm thiện
2- Niệm ác
Ở đây, bài
pháp này đức phật đang dạy La Hầu La về hơi thở vô, hơi thở ra, vì thế chánh niệm
ở đây phải hiểu là thân hành niệm nội, tức là hơi thở vô, hơi thở ra. Vậy, an
trú chánh niệm trước mặt tức là an trú HƠI THỞ VÔ, HƠI THỞ RA ở trước mặt.
Tĩnh giác
nghĩa là gì? - TĨNH GIÁC nghĩa là biết rất rõ ràng từng chi tiết nhỏ, biết rất
kỹ lưỡng, biết không có mờ mịt một chút xíu nào cả. Ở đây, chúng ta nên hiểu đức
Phật dạy La Hầu La phải biết rất kỹ từng HƠI THỞ VÔ, từng HƠI THỞ RA.
Người giữ
gìn Giới Hành Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra, có nghĩa là tu tập an trú trong hơi thở
vô hơi thở ra phải biết rất rõ ràng, không được để quên, để mất, để mờ mịt hơi
thở vô, ra.
Vì tâm chúng
ta hay quên (vô ký) nên phải dùng pháp tác ý dẫn tâm tĩnh giác mãi mãi, làm cho
tâm sáng suốt thấy biết rất rõ ràng từng hơi thở vô, ra: “Hít vô tôi
biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. An trú được trong
hơi thở là đạt được căn bản về phương pháp tu Định Niệm Hơi Thở.
Để thực hiện
giới hành này, chúng ta nên theo lời đức Phật dạy Tôn giả La Hầu La mà tu tập
như sau:
Trước tiên,
chúng ta tìm nơi vắng vẻ, yên tịnh, rồi tập ngồi kiết già lưng thẳng. Sau khi tập
ngồi kiết già lưng thẳng được, có nghĩa là ngồi tréo chân mà không thấy khó chịu,
hoặc đau hoặc tê chân chừng nửa tiếng đồng hồ; khi ngồi được nửa tiếng đồng hồ
yên ổn, thì mới đặt niệm hơi thở vô, hơi thở ra trước mặt, và tác ý như
sau: “Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra”. Khi
tác ý xong câu này, ta truyền lệnh: “Hít”; truyền lệnh xong ta
mới hít vô, tĩnh giác rất kỹ theo HƠI THỞ VÔ. Sau khi hơi thở vô hết, ta truyền
lệnh: “Thở”; khi truyền lệnh xong ta mới thở ra, và phải sáng
suốt tĩnh giác theo HƠI THỞ RA. Cứ như vậy mà tu tập 1 phút. Nếu
tu tập 1 phút sức tĩnh giác rất tốt, không quên hơi thở nào, có nghĩa là trong
một phút không bao giờ ta quên hơi thở, mà cũng có nghĩa là trong một phút
không có một niệm vọng tưởng nào xen vào được.
Nếu một phút
tu tập tốt, ta tăng lên 2 phút, rồi 3 phút, rồi 4, 5 phút. Sau khi đạt được 5
phút rất tĩnh giác hơi thở ra, vô, ta tăng lên 6, 7, 8, 9, 10 phút. Sau khi
tăng lên 10 phút, ta xét xem lại toàn bộ cơ thể có xảy ra trạng thái gì không?
Ví dụ: nặng
đầu, nặng mặt, choáng váng, chóng mặt, v.v… khi có những trạng thái như vậy xảy
ra, thì nên báo cho Thầy biết để kịp thời sửa lại cho đúng cách tu tập, để
không bị ức chế tâm, thân, không khéo bị rối loạn cơ bắp và thần kinh, v.v…
Trong giới
hành về hơi thở vô, hơi thở ra có 19 đề mục tu tập. Mười chín đề mục Định Niệm
Hơi Thở được chia ra làm hai phần:
1- Bảy đề mục
đầu Nhiếp tâm và An trú tâm.
2- Mười hai đề mục sau Đẩy lùi các ác pháp.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét