43-BA MƯƠI BẢY PHẨM TRỢ
ĐẠO: BÀI PHÁP THỨ HAI NGŨ LỰC
Ngũ Lực gồm
có:
1- Tín lực
2- Tấn lực
3- Niệm lực
4- Định lực
5- Tuệ lực
Khi tu tập
pháp môn NĂM CĂN ở trên, tức là dùng ý thức giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân
thanh tịnh, không cho năm căn chạy theo năm trần thì chúng ta đạt được năm
thành quả, đó là NGŨ LỰC. Ngũ Lực là pháp thứ II mà trong kinh sách Nguyên Thủy
còn ghi lại và lưu giữ cho đến ngày nay.
Tóm lược
pháp tu tập Ngũ Lực, trước tiên chúng ta muốn tu tập TÍN LỰC thì phải hiểu
nghĩa rõ ràng. Tín Lực có nghĩa là lòng tin sâu sắc đối với Phật pháp không bao
giờ thay đổi, lòng tin bất di bất dịch dù cho ai chống trái bài bác Phật giáo
chúng ta cũng không bao giờ nghe, không bao giờ thay lòng đổi dạ, chỉ biết tin
vào pháp Phật.
Muốn có được
lòng tin như vậy thì chúng ta phải sinh ra cùng thời với đức Phật ra đời, hoặc
phải sinh làm người được gặp một bậc tu chứng cũng làm chủ sinh, già, bệnh, chết
như Phật.
Đó là điều cần
thiết tạo nên TÍN LỰC, nếu không có điều kiện này thì dù muốn dù không, lòng
tin của chúng ta cũng không mạnh mẽ, chỉ tin một cách cạn cợt.
Người không
đủ lòng tin dù có tu tập đúng pháp của Phật thì cũng chỉ tu tập lấy có, thường
phá hạnh độc cư, đi nói chuyện người này đến người khác. Những người này hiện
thân là Ma Ba Tuần trong Phật giáo, thường đi đến thất người này rồi đến thất
người khác làm cho mọi người không ai tu tập được.
Khi thấy những
loại Ma Ba Tuần này thì quý thầy, quý cô nên đóng cửa thất không tiếp giao, đừng
ở gần, nên tránh xa, tránh xa những người này như tránh xa vi trùng bệnh truyền
nhiễm.
Trong chúng
chỉ có một con Ma Ba Tuần thì trong chúng đó phải cẩn thận, khi thấy bóng dáng
con ma đó thì nên đóng cửa thất cho chặt và ngồi thiền nhiếp tâm bất động để vượt
qua loài Ma Quỷ.
Những hành động
tránh xa loài Ma Ba Tuần là nói lên lòng tin của mình đối với Phật pháp không
lay chuyển, còn ngược lại, những người không có lòng tin, hay lòng tin chưa đủ
thường mở cửa thất ra tiếp duyên. Đó là những người thích nói chuyện với những
loài ma này. Quý vị nên lưu ý.
Vì con đường
tu theo Phật giáo không khó, nhưng khó là do Ma Ba Tuần cám dỗ quý vị để phá hạnh
ĐỘC CƯ, khiến cho tâm quý vị thường bị phóng dật.
Khi có lòng
tin sâu Phật pháp thì quý vị rất siêng năng tu tập không bao giờ biếng trễ. Khi
có lòng tin thì mới có cố gắng tu tập. Sự cố gắng nỗ lực tu tập hết mình thì gọi
là TẤN LỰC. Khi hằng ngày nỗ lực nhiếp tâm tu tập đúng pháp không hề sai sót một
niệm nào cả, luôn luôn duy nhất có một niệm TÂM BẤT ĐỘNG từ giờ này đến giờ
khác, từ đó niệm này trở thành một sức lực của niệm nên gọi là NIỆM LỰC. Khi niệm
có lực chúng ta chỉ cần niệm là toàn cả thân tâm chúng ta gom lại thành một khối
duy nhất, không ai làm gì nó bị phân ra được nên gọi là ĐỊNH LỰC. Khi
thân tâm gom lại thành một định lực thì trong khối định lực đó
có một sự hiểu biết vượt ra khỏi không gian và thời gian. Sự hiểu biết không
còn bị lệ thuộc vào không gian và thời gian được gọi là TUỆ LỰC. Đến đây chúng
ta đã có đủ năm lực.
Ngũ lực này
có được là do chúng ta tập NGŨ CĂN, khi ngũ căn thanh tịnh thì NGŨ LỰC xuất hiện
đầy đủ. Tuy nói vậy, chớ trên đường tu tập Ngũ Căn, khi tu tập một căn nào
thanh tịnh thì nơi căn đó xuất hiện đầy đủ Ngũ Lực. Cho nên Ngũ Căn và Ngũ Lực
là những pháp đầu tiên tu theo Phật giáo, nếu chưa tu tập Ngũ Căn, Ngũ Lực, mà
tu tập pháp nào cũng mất căn bản, vì vậy quý vị nên nhớ.
Có nhiều người
bắt đầu tu tập mà không tu tập những pháp căn bản như Ngũ Căn và Ngũ Lực, lại
tu tập thiền định hoặc niệm Phật nhất tâm cầu vãng sinh Cực Lạc Tây Phương, hoặc
tham thoại đầu, công án, hoặc niệm chú, hoặc tụng kinh Pháp Hoa. Những điều tu
tập như vậy chứng tỏ người tu tập không rõ đường đi lối về của Phật giáo. Do tu
tập sai pháp như vậy, nên dù có tu tập ngàn đời muôn kiếp cũng chẳng tu tập đến
đâu. Một bằng chứng hiện giờ cho chúng ta biết, có bao nhiêu tu sĩ cũng như cư
sĩ tu tập hết sức, nhưng cũng chẳng có một người nào tu làm chủ SINH, GIÀ, BỆNH,
CHẾT, vì đó là tu sai pháp, không đúng Phật pháp. Đọc tiểu sử
Danh Tăng Việt Nam tập I, tập II, có trên mấy trăm vị cao tăng Việt Nam, nhìn lại
chỉ là những nhà học giả, nhất là những vị có lối sống kỳ đặc khác thường, khiến
cho người đời tưởng là chứng đạo, chớ xét kỹ theo đúng pháp của Phật thì chưa
có một vị nào tu tập đến đâu cả. Kinh sách của các Ngài viết chỉ là kiến giải
theo kinh nghiệm bản thân của mình, không giống chút nào của Phật dạy, nhất là
lặp lại ý nghĩa kinh sách của tổ xưa để lại, chỉ là những lý thuyết suông,
không có kinh nghiệm trong tu hành làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Vì thế những
kinh sách này toàn là kinh tưởng.
Khi đọc cuốn
Danh Tăng Việt Nam chúng tôi rất xấu hổ, là những danh tăng Việt Nam chỉ là kiến
thức hữu học thế gian, huân tập những kiến thức trong kinh sách Đại thừa của
các học giả Trung Hoa, chớ Kinh sách Phật giáo của Việt Nam chẳng có cuốn sách
nào cả. Ngay cả dòng Thiền lớn nhất của Việt Nam - Trúc Lâm Yên Tử cũng chịu ảnh
hưởng Thiền tông và Tịnh Độ tông Trung Hoa. Việc khéo léo thiện xảo của vua Trần
Nhân Tông là biết hợp hai giáo pháp của hai tông phái lớn nhất của Trung Quốc
này lại, lập thành pháp môn tu hành cho dòng thiền Trúc Lâm Việt Nam. Có những
người không hiểu biết mới hãnh diện cho rằng Việt Nam cũng có dòng thiền không
thua vì Trung Quốc, chớ kỳ thật Thiền tông Việt Nam: THIỀN chẳng
ra THIỀN mà TỊNH thì chẳng ra TỊNH.
Thiền gì mà
còn tụng niệm (Tâm kinh bát nhã). Tịnh gì mà còn tham công án, tham thoại đầu,
biết vọng liền buông. Có lẽ đây là THIỀN TỊNH song tu. Thiền Tịnh song tu đó là
lời nói che đậy sự tu hành của Thiền tông Việt Nam bị bế tắc.
Đọc hết kinh
sách Phật giáo và Thiền tông Việt Nam, chúng tôi chẳng thấy có một cuốn sách
nào là của Việt Nam cả, toàn là lai căng ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo và Thiền
tông Trung Quốc.
Tại sao một
dân tộc Việt Nam có một nền văn hóa riêng biệt, không thua vì văn hóa các nước
trên thế giới, thế mà bị ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc rất nặng, không tự mình
vươn lên xây dựng cho mình một nền văn hóa đạo đức Phật giáo mà không chịu ảnh
hưởng Phật giáo Ấn Độ và Trung Quốc, và bất cứ một nước nào mang Phật giáo đến
với đất nước chúng ta.
Đọc lịch sử
Phật giáo Việt Nam, chúng ta thấy rất rõ Phật giáo truyền vào Việt Nam đi vào
ba ngõ:
1- Ngõ thứ
nhất từ Trung Hoa đến.
2- Ngõ thứ
hai từ Ấn Độ sang.
3- Ngõ thứ ba từ Lào, Thái Lan và Campuchia sang.
- Từ Trung Hoa truyền đến Việt Nam
có hai dòng tư tưởng Phật giáo:
Dòng tư
tưởng thứ nhất, đó
là Phật giáo Tịnh Độ tông. Do ảnh hưởng Nho giáo, nên dòng tư tưởng này mang
tính chất mê tín, hoang đường, lạc hậu, thường hướng dẫn giới bình dân vì giới
này dễ tin.
Như chúng ta
ai cũng biết, Phật giáo Tịnh Độ tông từ Trung Quốc truyền sang Việt Nam là dòng
tư tưởng mê tín. Đó là một Phật giáo không còn nguyên chất Phật giáo Ấn Độ, nó
chịu ảnh hưởng tư tưởng Khổng giáo, Trang Tử Trung Quốc, mà sinh ra một loại Phật
giáo mê tín, lạc hậu, thường lấy sự cúng bái, tụng niệm làm công phu tu hành của
mình. Cho nên khi có bệnh tật hay tai nạn thì tụng kinh cầu an, nếu có người chết
làm ma chay thì tụng niệm kinh cầu siêu. Khi tụng niệm kinh cầu siêu thường
đánh chuông, gõ mõ và trống kèn, đàn nhạc theo giọng tụng kinh niệm Phật ê, a
giống như ca hát, mà các nhạc sư gọi là Nhạc Đạo.
Chính vì muốn
ru hồn người vào cảnh mộng, nên các nhà sư Đại thừa mới xây dựng một thế giới
siêu hình Cực Lạc Tây Phương để linh hồn người chết có chỗ nương tựa. Cho nên lấy
sự cúng bái tụng niệm làm đường công phu: trưa, chiều, tối, khuya, chuông, mõ,
trống, phách, đẩu nhịp nhàng theo giọng tụng niệm cao thấp ngâm
nga giống như hát bộ.
Phật giáo Tịnh
Độ tông từ Trung Hoa truyền sang qua Việt Nam, gây ảnh hưởng tư tưởng mê tín rất
nặng cho cả một dân tộc Việt Nam, cho đến ngày nay đã trở thành một nếp sống tư
tưởng văn hóa mê tín, lạc hậu.
Cho nên hiện
giờ muốn bỏ một truyền thống văn hóa mê tín không phải dễ. Đó là một việc làm hết
sức khó khăn. Trong những năm phong trào Việt Minh nổi dậy, ra lệnh cấm dẹp những
mê tín này, nhưng khi phong trào Việt Minh thay đổi thì nạn mê tín lại tràn lan
khắp nơi còn nhiều hơn nữa.
Theo chúng
tôi nghĩ, muốn dẹp trừ tư tưởng Phật giáo mê tín thì không có gì bằng là nên mở
những lớp học đạo đức nhân bản - nhân quả, khiến mọi người am hiểu đâu là chánh
tín và đâu là mê tín. Nhờ có sự hiểu biết Chánh tín của Phật giáo thì tệ nạn mê
tín trong dân gian sẽ dần dần được quét sạch. Nói về tư tưởng mê tín được truyền
thừa lâu đời, thì không có một thế lực hay một quyền uy nào mà cấm được, chỉ có
ý thức con người biết nó là mê tín thì mới dẹp bỏ được. Dòng tư tưởng mê tín
này đã trở thành một nền văn hóa của dân tộc Việt Nam. Cho nên hiện giờ muốn dẹp
bỏ những mê tín lạc hậu này, thì bắt đầu phải biên soạn sách giáo khoa đạo đức
nhân bản - nhân quả từ tiểu học, trung học và đại học, để giúp
các em am tường những mê tín lạc hậu đó từ đất nước Trung Quốc truyền sang.
Dân tộc Việt
Nam đã chịu ảnh hưởng dòng tư tưởng văn hóa của Phật giáo mê tín Trung Quốc
truyền sang, mà đến giờ này muốn bỏ mà chưa bỏ được. Nhìn cảnh đồng bào dân tộc
chúng ta đã hao tốn biết bao nhiêu tiền bạc mua vàng mã, để rồi đem thiêu đốt,
nếu tính ra, hằng năm trong cả nước phải tiêu phí có hằng tỷ bạc về vấn đề mê
tín lạc hậu này, thật là đau lòng.
Dòng tư
tưởng thứ hai, đó
là Phật giáo Thiền tông chịu ảnh hưởng tư tưởng Lão giáo, nên dòng tư tưởng này
mang tính triết lý, hướng dẫn giới trí thức, nên thường dùng lý luận đề cao triết
học TÁNH KHÔNG, nhờ triết học tánh không nên dễ thu hút giới tri thức.
Phật giáo
Thiền tông lấy lý luận dẫn chứng khoa học làm chỗ dựa vững chắc, nên dễ lừa gạt
giới trí thức một cách dễ dàng, nhất là khi truyền sang qua Nhật Bổn, được người
Nhật triển khai tận cùng loại tư tưởng Phật giáo này.
Đại diện cho
Phật giáo Thiền tông Nhật Bổn có đại sư SUZUKI, ông đã viết sách thiền làm nổi
sóng các nước Đông Nam Á Châu. Từ năm 1970 đến năm 1980, người ta hướng về Thiền
tông như làn sóng ào ạt. Nhưng từ năm 1980 đến nay, làn sóng Thiền
tông mới lần lần xuống cấp. Bởi vì Thiền tông lý luật rất hay, nhưng tu chứng đạo
thiền thì không ai tu tập được. Có đạt được cũng chỉ lọt vào trạng thái KHÔNG
TƯỞNG.
Qua mọi sự
kiện trên, chúng ta nên lưu ý pháp môn nào tu tập được và pháp môn nào tu tập
không được. Mục đích tu tập của Phật giáo không phải diệt ý thức. Vì ý thức vốn
là điều kiện cần thiết cho sự làm chủ thân tâm, nên đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy: “Ý
làm chủ, ý tạo tác, ý dẫn đầu các pháp”. Nếu ý thức bị ức chế như
Tịnh Độ tông, Thiền tông và Mật tông, thì đó là tu tập sai pháp của Phật giáo.
Phật giáo lấy ý thức dẫn tâm vào đạo. Cho nên đạo Phật mới có pháp môn NHƯ LÝ
TÁC Ý như lời đức Phật đã dạy trong kinh Lậu Hoặc: “có Như Lý Tác Ý,
lậu hoặc chưa sinh sẽ không sinh, mà đã sinh thì bị diệt”. Câu này
dạy quá rõ ràng, nhờ đó chúng ta mới biết Phật giáo Thiền tông và Phật giáo Tịnh
Độ tông Trung Quốc không phải là Phật dạy, mà do các tổ Trung Quốc tu hành chưa
tới nơi tới chốn, rồi kiến giải viết ra kinh sách theo kinh nghiệm tu tập của
mình.
Khi văn hóa
Phật giáo từ Ấn Độ truyền sang, thì người Trung Quốc mượn nền văn hóa đó khéo tự
chế biến thành một nền văn hóa Phật giáo Trung Quốc làm dồi dào cho văn hóa đất
nước mình, thật là tuyệt vời.
- Ngõ thứ hai: Từ Ấn Độ, Phật giáo
truyền sang vào miền Bắc đất nước ta, nhưng dân tộc Việt Nam đã chịu ảnh
hưởng Phật giáo Trung Quốc, nên họ không theo, vì thế các nhà sư Ấn Độ trở
về nước. Do những điều kiện này, mà di tích văn hóa Phật giáo Ấn Độ không
có lưu lại đền, tháp, chùa ở miền Bắc Việt Nam.
- Ngõ thứ ba: Phật giáo Nam tông từ
Lào, Thái Lan, Campuchia truyền sang, vì thế mà những tỉnh sát ranh giới
Campuchia, Lào, có một số người theo tu tập, nhưng phần đông họ là người
Việt lai Campuchia, chớ người Việt chính gốc thì không theo.
Như vậy
chúng ta thấy rất rõ, dân tộc Việt Nam chịu ảnh hưởng văn hóa Phật giáo Trung
Quốc rất sâu nặng, không thể có một tư tưởng Phật giáo nào làm thay đổi tư tưởng
họ được.
Như chúng ta
ai cũng biết, nếu dựa theo dòng lịch sử Phật giáo truyền sang qua đất nước
chúng ta, thì Phật giáo không còn là của Phật giáo chính gốc nữa, mà là một Phật
giáo lai căng. Phật giáo lai căng là một loại Phật giáo tu hành uổng công vô
ích, vì tu hành chẳng đến đâu cả, mà còn làm hao tốn tiền của một cách vô ích…
Phật giáo hiện
giờ là Phật giáo Bà La Môn giáo, cho nên không ai tu chứng làm
chủ sinh, già, bệnh, chết được, nếu chúng tôi không ra công dựng lại chánh pháp
của Phật, chắc không còn ai biết Phật giáo chân chánh gì nữa.
Cho nên nói
NGŨ LỰC, mà nhận ra đúng chánh pháp của Phật thì tu tập lần lượt xuất hiện đủ
năm lực, còn nhận ra không đúng chánh pháp của Phật thì khó có năm lực được. Tại
sao vậy?
Vì lòng tin
phải đặt đúng chánh pháp của Phật thì siêng năng tu tập mới có kết quả tốt đẹp,
còn không đúng chánh pháp của Phật thì tu tập không bao giờ có kết quả, nên dù
có siêng năng cũng chỉ một thời gian mà thôi. Chính siêng năng là nhờ tu tập có
kết quả, còn tu tập không kết quả thì không sao siêng năng được. Phải không quý
vị?
Khi tu tập
siêng năng đúng pháp thì NIỆM LỰC hiện tiền, mà niệm lực hiện tiền từ giờ này
sang giờ khác thì đó là ĐỊNH LỰC. Khi định lực ngự trị trong tâm chúng ta suốt
bảy ngày đêm thì tâm rất thanh tịnh, giống như nước hồ trong xanh, vì thế tất cả
mọi sự việc trong quá khứ hay tương lai, khi chúng ta muốn biết thì chúng hiện
ra rất rõ. Do đó mà danh từ trong kinh Phật gọi đó là TUỆ LỰC.
Tới đây con
đường tu tập của chúng ta đã hoàn mãn, tâm luôn luôn BẤT ĐỘNG. Do sự bất động
này mà người tu hành làm chủ sự sống chết dễ như trở bàn tay.
Tuy Ba Mươi
Bảy Phẩm Trợ Đạo, mà không phải tu tuần tự theo pháp, mà nên chọn pháp
nào phù hợp với đặc tướng của mình mà tu tập thì chứng đạo ở pháp đó, chớ
không phải tu hết cả Ba Mươi Bảy Pháp Môn.
Cho nên khi
vào tu tập, chúng ta nên chọn pháp phòng hộ sáu căn, rồi lấy CHÂN LÝ DIỆT ĐẾ,
ôm chặt pháp NGŨ LỰC tu tập, đến khi TUỆ LỰC xuất hiện thì chúng ta thành công.
Nếu chúng ta
không chọn pháp Ngũ Căn và Ngũ Lực tu tập, thì chúng ta nên chọn pháp môn TỨ VÔ
LƯỢNG TÂM, đây là pháp thứ ba của Phật giáo trong 37 pháp tu tập.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét