85-BÀI IN TRONG SÁCH MƯỜI
HAI CỬA VÀO ĐẠO: KHÔNG PHÓNG DẬT/ 2
Cho nên khi
giác ngộ 12 nhân duyên, chúng ta không tin có một đấng vạn năng, một ông Ngọc
Hoàng Thượng Đế hay một vị Trời nào sáng tạo ra vũ trụ cả. Những đấng ấy toàn
là tưởng tri của con người dựng lên, chớ chưa từng có một người nào trên thế
gian này trực tiếp gặp các Ngài. Chỉ có những người ợ ợ, ngáp ngáp, lên đồng nhập
xác như các phù thủy để lừa đảo con người bằng tưởng thức, xây dựng
một thế giới siêu hình đầy đủ những hồn ma người chết, đầy đủ những Thần,
Thánh, Tiên, Phật, Quỷ, Ma, v.v…
Khi thông suốt
12 nhân duyên, không ai có thể gạt chúng ta rằng có các cõi Trời, cõi Cực Lạc.
Bởi do thông suốt 12 nhân duyên, nên đức Phật dạy: “33 cõi Trời là
tưởng tri chớ không phải liễu tri”.
Khi thông suốt
12 nhân duyên rất có lợi, vì biết rõ vạn vật sinh ra do đâu mà có, con người
sinh ra từ đâu đến và chết đi về đâu, có linh hồn hay không có linh hồn, còn có
sự sống sau khi chết hay không? Thế giới vô hình có hay không có? Quỷ, Ma, Thần,
Thánh, Tiên, Phật, Trời, Ngọc Hoàng Thượng Đế, các đấng bề trên có hay không
có? Địa Ngục, các vua Diêm Vương, Quỷ Sứ, Ngưu Đầu Mã Diện, Quỷ Dạ Xoa có hay
không có đều biết rất rõ. Tất cả những nhân vật này là những nhân vật tưởng tri
của những nhà văn Trung Quốc dựng lên, từ truyện Tây Du Ký, Đông Du Bát Tiên,
Nam Du Huê Quang, Bắc Du Chơn Võ, Phong Thần, Phong Kiếm Xuân Thu, Liêu Trai
Chí Dị, v.v…
Tất cả nhân
vật trong những chuyện này toàn là tưởng tri của các nhà văn khéo tưởng tượng dựng
lên mà viết ra. Các nhà làm tôn giáo không thông suốt nên tin rằng
những nhân vật này có thật. Vì thế mới đem các nhân vật hư cấu trong các bộ
truyện này vẽ ra hình tượng, hay tạc ra cốt tượng rồi đặt lên bàn thờ, nơi
trang trọng nhất trong các đền thờ. Do vô minh không biết nên các tín đồ của
các tôn giáo bỏ tiền ra xây chùa, tháp, miếu, niệm Phật đường, thánh thất, nhà
thờ, v.v… một số tiền không phải nhỏ. Trong khi đất nước đang xóa đói giảm
nghèo mà được số tiền ấy thì nhân dân làm sao đói, làm sao nghèo. Phải không
thưa quý vị?
Đành rằng
tinh thần tôn giáo là một điều cần thiết như cơm ăn áo mặc, nhưng phải là tinh
thần có đạo đức, có văn hóa, chớ không lẽ tinh thần lạc hậu mê tín, quỳ lạy cầu
xin những nhân vật hư cấu như vậy ban phước lành, thì thật là ngu ngốc vô cùng.
Trong thời đại
được gọi là tôn giáo văn minh, nhưng chúng tôi thấy không có văn minh chút nào
cả, vì trong các nơi thờ tự của các tôn giáo còn giữ nguyên những hình ảnh nhân
vật hư cấu giàu tưởng tượng.
12 nhân
duyên đã làm sáng tỏ thế giới siêu hình là thế giới tưởng, khiến con người
không còn sống trong mê tín mù quáng, lạc hậu nữa. Mười hai nhân duyên cũng làm
cho chúng ta thông suốt vũ trụ là một thế giới duyên hợp, nên
không còn ai dối gạt được chúng ta nữa.
SÁU XỨ là
sáu nơi thường tiếp xúc với SÁU TRẦN. Sáu xứ là gì?
Sáu xứ là MẮT,
TAI, MŨI, MIỆNG, THÂN, Ý. Mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý là chỉ cho một con người.
Một con người là phải có đủ mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý. Cho nên nói sáu xứ
tức là nói con người, trong một con người có ba cái biết:
1- Ý thức.
2- Tưởng
thức.
3- Thức
thức.
- Ý thức là cái biết của mọi người
đang sử dụng trong cuộc sống hằng ngày.
- Tưởng thức là cái biết trong giấc
mộng; là cái biết của các nhà ngoại cảm; là cái biết của những người lên đồng
nhập xác; là cái biết của những phù thủy.
- Thức thức là cái biết của những
người đã tu chứng đạo (tuệ Tam Minh).
Muốn biết rõ
sáu xứ, chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Từ duyên của Sáu Xứ là
gì? Danh Sắc là câu trả lời”.
Danh sắc là
thân và tưởng thức của chúng ta. Bởi thân ngũ uẩn có năm uẩn: sắc, thọ, tưởng,
hành, thức. SẮC là thân, THỌ là các cảm thọ của thân và tâm, TƯỞNG là tưởng thức,
HÀNH là các hoạt động của thân, tâm và tưởng, THỨC là cái biết của thân, tâm
người đã tu chứng đạo.
Như vậy, bây
giờ quý vị đã hiểu rõ danh sắc. DANH SẮC chỉ là THÂN TÂM của chúng ta mà thôi.
DANH là TƯỞNG
THỨC và SẮC là SÁU THỨC. Vậy, danh sắc gồm có bảy cái biết:
1- Nhãn
thức.
2- Nhĩ thức.
3- Tỷ thức.
4- Thiệt
thức.
5- Thân
thức.
6- Ý thức.
7- Tưởng
thức.
Cho nên nói
danh sắc tức là nói bảy cái thức. Vậy chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Từ
duyên của Danh Sắc là gì? Thức là câu trả lời”.
Đúng vậy, THỨC là
bảy cái biết của THÂN, TÂM như trên đã nói, ngoài bảy thức thì không có danh sắc.
Danh sắc không có thì thân, tâm và tưởng cũng không có, mà thân, tâm và tưởng
có là phải có sự hoạt động, sự hoạt động đó gọi là hành. Cho nên đức Phật xác định
rất rõ ràng: “Từ duyên của Thức là gì? Hành là câu trả lời”.
HÀNH là sự
hoạt động của THÂN, TÂM và TƯỞNG. Nếu thân tâm và tưởng không hành theo con đường
giải thoát của Phật giáo, mà hành theo tham ái thì đó là sự hoạt động không
sáng suốt. Sự hoạt động không sáng suốt thường đem đến sự đau khổ vô cùng vô tận.
Biết rõ như vậy, nên đức Phật dạy: “Từ duyên của Hành là gì? Vô Minh
là câu trả lời”. (61 Tương Ưng tập 2)
Vô minh tức
là không sáng suốt, mà hoạt động không sáng suốt là tạo ra nhiều khổ đau. Bởi vậy,
muốn hành là phải hành theo đạo đức của Phật giáo. Hành theo đạo đức của Phật
giáo là không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh. KHÔNG LÀM KHỔ MÌNH, KHỔ
NGƯỜI VÀ KHỔ TẤT CẢ CHÚNG SANH là giải thoát. Đó là mục đích giải thoát của đạo
Phật.
Trong kinh
Tương Ưng, có chỗ ngài Xá Lợi Phất hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Nếu con
được hỏi: Này hiền giả, giải thoát như thế nào? Mà đã tuyên bố trí đã được chứng
đắc, sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, các việc làm đã làm xong, không còn trở
lui trạng thái này nữa?
Thì
con sẽ trả lời: Do tự giải thoát, do tự đoạn diệt tất cả chấp thủ, con luôn an
trú tâm trong chánh niệm. Nhờ sống an trú tâm trong chánh niệm như vậy, các lậu
hoặc không còn tiếp tục rỉ chảy, và con không còn chấp tự ngã”.
Ngài Xá Lợi
Phất trả lời rất đúng. Sự giải thoát này phải do chính mình, không có một người
nào giúp mình được. Do tự chính mình phải ĐOẠN DIỆT CÁC CHẤP THỦ và phải luôn
luôn SỐNG AN TRÚ TÂM TRONG CHÁNH NIỆM, nhờ vậy mọi ác pháp không tác động được
tâm. Tâm hoàn toàn vô lậu, chứng đạt chân lý, như đức Phật đã kết luận như
sau: “Tóm lại, pháp môn này gọi tắt như sau: Những cái gì được vị Sa
môn gọi là lậu hoặc là Ta không còn nghi ngờ gì nữa, chúng đã được Ta diệt tận
không còn phân vân gì nữa”. (100 Tương Ưng tập 2) (82)
Người có trí
tuệ về pháp thì phải thông suốt GIÀ, CHẾT.
GIÀ là cơ thể
phải suy nhược, răng rụng, da nhăn, tóc bạc, lưng khọm, tay chân run rẩy, yếu
đuối, v.v… Đó là một sự đau khổ của kiếp người.
CHẾT là cơ
thể bị hủy diệt, tử vong, các uẩn tàn lụn, hoại diệt, v.v… Đó là một sự khổ mà
con người không ai tránh khỏi. Do thông suốt sự khổ đau ấy, nên người có trí phải
lo tu tập làm chủ già chết. Cho nên đức Phật dạy: “Này các thầy Tỳ
kheo, vị Thánh đệ tử biết già chết như vậy, biết già tập khổ như vậy, biết già
diệt như vậy, biết con đường đưa đến già chết diệt như vậy”.
Một khi đã
hiểu biết như vậy, thì họ sẽ cố gắng tu tập để giữ gìn TÂM BẤT ĐỘNG. Do đó tâm
họ sẽ vô lậu hoàn toàn, không bị thời gian quá khứ và vị lai chi phối. Cho nên,
kinh Tương Ưng xác định sự hiểu biết đó là pháp trí: “Đây là PHÁP
TRÍ của vị ấy. Vị ấy với pháp này được thấy, được biết, được quả tức thời, được
đạt đến, được thể nhập, hướng dẫn thái độ của mình đối với quá khứ và trong
tương lai”. (106 Tương Ưng tập 2)
Quý vị có hiểu
lời dạy này chăng?
Pháp trí là
trí tuệ hiểu biết về các pháp sinh, già, bệnh, chết là khổ, người có pháp trí
là người biết cuộc đời là khổ, không có vật gì trên thế gian này là ta, là của
ta. Hiểu được như vậy thì hãy buông xả cho sạch. Vì buông xuống cho sạch nên được
giải thoát hoàn toàn.
Khi một người
có PHÁP TRÍ thì họ không nghĩ gì về tương lai, dù trong tương lai có xảy ra điều
gì họ cũng chẳng còn lo lắng buồn phiền và sợ hãi nữa. Do chẳng còn lo lắng buồn
phiền sợ hãi nên họ đang sống trong TÙY TRÍ. Vậy, chúng ta muốn hiểu tùy trí
thì hãy nghe đức Phật dạy: “Những Sa môn hay Bà la môn nào trong
tương lai sẽ hiểu rõ già chết, sẽ hiểu rõ già chết tập khởi, sẽ hiểu rõ già chết
diệt, sẽ hiểu rõ con đường đưa đến già chết diệt, tất cả những vị ấy sẽ hiểu biết
như vậy. Như vậy, như hiện nay Ta vậy. Đây tức là TÙY TRÍ của vị ấy”.
Người có được
pháp trí và tùy trí thì người ấy sống trong ba thời gian quá khứ, hiện tại và vị
lai hoàn toàn thân tâm được giải thoát, không còn một chút xíu nào lậu hoặc.
Người ấy được nhập lưu, nhập vào dòng thánh, được đầy đủ trí hữu học, được (84) đầy
đủ minh hữu học. Vậy trí hữu học và trí minh hữu học như thế nào? Muốn biết hai
loại trí này, chúng ta hãy nghe đức Phật dạy: “Này các thầy Tỳ Kheo!
Vì rằng vị Thánh đệ tử được thanh tịnh và thuần tịnh hai loại trí: PHÁP TRÍ và
TÙY TRÍ. Vị ấy được gọi là Thánh đệ tử đạt tri kiến, đã đi đến diệu pháp này,
đã chấp nhận diệu pháp này, đã đầy đủ hữu học trí, đã đầy đủ trí hữu học minh,
đã nhập được pháp lưu, là bậc Thánh minh đạt tuệ, đã đứng gõ vào cửa bất tử”. (107
Tương Ưng tập 2)
Trong lời dạy này rất rõ ràng, người có đủ pháp trí và tùy trí là người hoàn toàn làm chủ sinh, già, bệnh, chết. Người hoàn toàn làm chủ sinh, già, bệnh, chết như lời dạy trong đoạn kinh này là người đang đứng gõ vào cửa bất tử. Vì đã đủ trí hữu học và trí minh hữu học.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét