84-BÀI IN TRONG SÁCH MƯỜI
HAI CỬA VÀO ĐẠO: KHÔNG PHÓNG DẬT/ 1
Khi siêng
năng tinh cần tu tập giữ gìn tâm không phóng dật thì lậu hoặc sẽ bị đoạn diệt.
Vì thế, những người này là người sáng suốt minh mẫn. Cho nên đức Phật dạy: “Này
các thầy tỳ kheo, đối với người biết, đối với người thấy, Ta nói các lậu hoặc
được đoạn diệt không phải đối với người không thấy, không biết”. (58
Tương Ưng tập 2)
Người có trí
tuệ mới sống không phóng dật, còn những người không trí tuệ thường sống tâm
phóng dật, thấy điều gì ưa thích thì chạy theo điều ấy, khiến cho cuộc sống bất
an. Người có trí tuệ là người biết tìm sự giải thoát nơi thân tâm mình, còn người
không trí tuệ thì không biết tìm giải thoát, cho nên cứ đắm mê ngũ dục lạc, vì
vậy cuộc đời luôn luôn sống trong khổ đau. Do đó đức Phật dạy: “Trong
đoạn diệt ấy, phải có trí tuệ đoạn diệt. Ta nói rằng trí tuệ ấy có duyên không
phải không có duyên”.
Để xác định
làm sáng tỏ điều này, để mọi người triển khai tri kiến giải thoát mà trong kinh
Phật thường dạy là tu tập. Chính tu tập là triển khai tri kiến giải thoát của
mình chứ có tu tập cái gì đâu, điều mà người ta lầm tưởng là ngồi thiền lâu tâm
sẽ sinh trí tuệ, sự thật là không phải vậy. Ngồi thiền lâu mà tâm bất động do xả
tâm ly dục ly ác pháp bằng phương pháp dẫn tâm, thì làm chủ thân bệnh chứ không
phải sinh trí tuệ. Trí tuệ giải thoát là do huân tập sự hiểu biết giải thoát, từ
đó chúng ta ly tham, sân, si, mạn, nghi đều bằng tri kiến hiểu biết này. Cho
nên chúng ta hãy nghe đức Phật dạy về nhân duyên: “Từ duyên của Trí
Tuệ về Đoạn diệt là gì? Giải Thoát là câu trả lời”.
Đúng vậy, muốn
đoạn diệt sự khổ đau của kiếp người thì phải bằng trí tuệ. Vậy trí tuệ phải hiểu
biết cái gì mới đoạn diệt khổ đau?
Trí tuệ phải
hiểu biết cái gì làm cho con người khổ đau. Khi trí tuệ của chúng ta biết rõ
cái gì làm cho đau khổ thì chúng ta lìa xa, hoặc từ bỏ hay đoạn diệt. Có lìa
xa, hay từ bỏ hoặc đoạn diệt thì chúng ta có giải thoát liền.
Cho nên từ duyên trí tuệ về đoạn diệt là giải thoát, như lời đức Phật đã dạy ở
trên. Chúng ta hãy nghe tiếp đức Phật dạy từ bỏ hay lìa xa hoặc đoạn diệt cái
gì để được giải thoát: “Từ duyên của Giải Thoát là gì? Ly Tham là
câu trả lời”.
Muốn thoát mọi
sự khổ đau trong cuộc đời thì chỉ có lìa xa, hay từ bỏ, hoặc đoạn diệt tâm tham
thì giải thoát ngay liền.
Đúng vậy, nếu
không đoạn diệt tâm tham thì không bao giờ có giải thoát, muốn đoạn diệt tâm
tham thì trước tiên phải xa lìa tâm tham, có nghĩa là tâm tham khởi lên ham muốn
một điều gì thì không nên làm theo.
Vậy chúng ta
hãy nghe tiếp đức Phật dạy duyên ly tham: “Từ duyên Ly Tham là gì? Yểm
Ly là câu trả lời”.
Đúng vậy,
trước khi muốn lìa tâm tham thì phải chế ngự tâm tham, làm cho tâm tham yếu đi
mà đức Phật gọi là yểm ly. Yểm ly có nghĩa là đầu tiên chúng ta khởi ham muốn một
điều gì thì hãy mau mau dừng lại, không được làm theo hay chạy theo. Không làm
theo, không chạy theo bằng trí tuệ như trên đã dạy.
Chúng ta tiếp
tục nghe đức Phật dạy duyên yểm ly: “Từ duyên Yểm Ly
là gì? Tri kiến Như Chơn là câu trả lời”.
Đúng như lời
đức Phật dạy, muốn yểm ly thì phải dùng tri kiến hiểu biết nhân quả, hiểu biết
các pháp vô thường, hiểu biết các pháp không có pháp nào là ta là của ta, là bản
ngã của ta, và hiểu biết cái nào đúng cái nào sai; kế đó còn phải hiểu biết cái
nào là chân lý và cái nào không phải là chân lý. Bởi danh từ như chơn của Phật
dùng nơi đây chúng ta phải hiểu nghĩa. NHƯ CHƠN ở đây có nghĩa là TÂM BẤT ĐỘNG.
Tâm bất động là thiền định. Cho nên đức Phật dạy: “Từ duyên của Như
Chơn là gì? Định là câu trả lời”.
Đúng vậy,
như chơn tức là định, mà ĐỊNH là TÂM BẤT ĐỘNG. Khi tâm bất động không còn niệm
vọng tưởng và hôn trầm thùy miên vô ký xen ra, xen vô thì tâm sẽ có một niềm
vui an lạc. Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Từ duyên của Định
là gì? Lạc là câu trả lời”.
Đúng vậy,
khi tâm có ĐỊNH thì phải có LẠC. Tâm có định mà không có an lạc thì định đó
không phải là định của Phật giáo. Khi tâm có an lạc thì thân tâm phải có cảm giác
khinh an. Khinh an có nghĩa là thân tâm khi có định thì thân tâm phải nhẹ nhàng
và an ổn. Cho nên đức Phật dạy có duyên định thì phải có duyên khinh an, không
bao giờ có định mà không có khinh an, cho nên định có là khinh an có, đó là
duyên của chúng không thể tách lìa ra được. Có an lạc là phải có khinh an.
Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Từ duyên của Lạc là gì? Khinh
An là câu trả lời”.
Đúng vậy,
duyên của LẠC là phải có duyên của KHINH AN, nếu thân tâm có niềm vui thì phải
có khinh an, đó là các duyên theo pháp duyên khởi mà không thể tách lìa chúng ra
được, cho nên nó thuộc về 12 nhân duyên, vì vậy đức Phật dạy các pháp duyên khởi
rất cẩn thận và kỹ càng không bỏ sót một duyên nào cả. Chúng ta hãy lắng nghe đức
Phật dạy tiếp: “Từ duyên của Khinh An là gì? Hỷ là câu trả lời”.
Đúng vậy,
khi thân tâm có cảm giác nhẹ nhàng an ổn thì rất vui mừng. Sự vui mừng này đức
Phật gọi là HỶ. Hỷ là niềm vui, khi có niềm vui thì phải có tâm HÂN HOAN, cho
nên đức Phật dạy: “Từ duyên của Hỷ là gì? Hân Hoan là câu trả lời”.
Đúng vậy,
hân hoan là lòng rất vui mừng giống như người đi xa về gặp lại
những người thân. Do đâu mà có lòng hân hoan ấy? Như trên đã nói, người đi xa
lâu ngày gặp lại nhau, hay chúng ta tin vào khả năng của mình sẽ làm nên một sự
nghiệp to lớn, nhưng khi làm được một việc gì lợi ích và tốt đẹp cho mình và
cho người thì lòng hân hoan phải có. Để xác định rõ điều này chúng ta hãy nghe
đức Phật dạy: “Từ duyên của Hân Hoan là gì? Lòng Tin là câu trả lời”.
Đúng vậy,
khi có lòng hân hoan như vậy là nhờ lòng tin của chúng ta biết chắc khả năng của
mình làm nên sự sự nghiệp to lớn, mà nay đã làm nên sự nghiệp to lớn thì chúng
ta phải hân hoan. Có những điều trong cuộc sống chúng ta không biết, nay có người
chỉ cho chúng ta biết như thật thì lòng tin tưởng rất mãnh liệt.
Từ xưa chưa
có ai nói cho chúng ta biết SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT là khổ. Hôm nay có người chỉ
cho chúng ta biết đó là bốn sự đau khổ của kiếp người mà không ai tránh khỏi.
Khi biết rõ như thật thì chúng ta khởi lòng tin tuyệt đối, không có cái gì làm
thay đổi lòng tin này được.
LÒNG TIN xuất
phát từ sự giác ngộ một sự thật. Biết rõ được sự thật như vậy
thì lòng HÂN HOAN không thể có bút mực nào nói lên hết được. Xưa chưa ai chỉ
cho chúng ta biết khổ như thật, thì nay chúng ta rất vui mừng vì chúng ta sẽ diệt
chúng, làm cho chúng không còn sinh khởi được nữa. Vì vậy chúng ta hãy tiếp tục
nghe đức Phật dạy: “Từ duyên của Lòng Tin là gì? Khổ là câu trả lời”.
Khổ là những
nỗi buồn, lo lắng, sợ hãi, thương ghét, giận hờn, nhớ nhung, mong chờ, v.v… Đó
là do có một cuộc sống, trong cuộc sống có những người thân thương và những người
không ưa thích, có những vật chất ưa thích và những vật chất không ưa thích. Tất
cả những điều gọi chung là KHỔ.
Đúng vậy, từ
lâu chúng ta chưa có ai dạy về khổ, bây giờ được dạy về khổ, đó là một sự thật
mà không ai dám phủ nhận. Có ai dám bảo rằng SINH, GIÀ, BỆNH, CHẾT là không khổ?
Như trên đã nói, khổ là do có cuộc sống. Chúng ta không tin thì hãy lắng nghe đức
Phật dạy: “Từ duyên của Khổ là gì? Sanh là câu trả lời”.
Đúng vậy,
sanh có nghĩa là đời sống của con người, nếu con người không có ĐỜI SỐNG thì
làm sao có KHỔ.
Trên thế
gian này không ai là không có đời sống. Vậy đời sống do đâu mà có. Chúng ta hãy
nghe đức Phật dạy: “Từ duyên của Sanh là gì? Hữu là câu trả lời”.
Đúng vậy, nếu
không có của cải tài sản, nhà cửa, ruộng vườn, đất đai, vợ con và những người
thân, quyến thuộc, anh em bạn hữu thì làm sao có KHỔ. Do chúng ta có và có rất
nhiều, cho đến những vật ném bỏ vào đống rác mà chúng ta còn cố giữ lại thì
trên đời này có vật gì mà chúng ta bỏ. Do chúng ta không biết buông xả nên
chúng ta mới chịu biết bao nhiêu thứ khổ đau. Cho nên chúng ta có vật gì thì
không bao giờ muốn bỏ, cố giữ lại, giữ lại cho đến khi cái nhà ở trở thành cái
nhà kho, hay đúng hơn là cái thùng rác. Chúng ta hãy nghe đức Phật dạy: “Từ
duyên của Hữu là gì? Thủ là câu trả lời”.[1]
Đúng vậy, nếu
HỮU có nghĩa là CÓ thì những vật chất mà chúng ta có được là do duyên hữu,
nhưng nếu chúng ta có mọi vật nhưng chúng ta đừng có giữ lại thì làm sao
có THỦ. Cho nên Phật pháp dạy không sai, nó là duyên, nếu duyên
này có thì duyên kia phải có, không thể làm sao không có được. Cho nên chúng ta
sống không có duyên hữu thì làm sao có duyên thủ. Chính vì có duyên hữu
mới có duyên thủ. Những điều trên đây là do chúng ta không biết pháp
môn TÁC Ý để phòng hộ sáu căn, nên khi vật chất đến là chúng ta dính mắc, cố chấp,
giữ gìn, bảo thủ làm của riêng của mình. Vì vậy duyên hữu có thì duyên thủ có, vì
hữu thủ có đủ nên chúng ta đang ở trong mê hồn trận mà không biết lối nào mà
ra. Pháp 12 nhân duyên rất tuyệt vời, khi duyên này có thì duyên kia có theo,
mà khi có theo như vậy là 12 nhân duyên đều hiện đủ. Mười hai nhân duyên đều hiện
đủ thì một thế giới khổ đau hiện bày.
Khi duyên thủ
có thì không phải tới đây nó chấm dứt mà nó phải có duyên khác nữa, chúng ta
hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Từ duyên của Thủ là gì? Ái là câu trả lời”.
Nếu duyên thủ
có thì duyên ái dục có. Bởi vì có giữ lại thì phải có ưa thích, nếu không ưa
thích thì làm sao chúng ta cố giữ lại làm gì, cho nên khi có giữ lại thì phải
có ưa thích. Do đó trong kinh dạy: “Có duyên thủ thì phải có
duyên ái”.
Đúng vậy, nếu
không ưa thích (ÁI) thì làm sao chúng giữ gìn bảo thủ (THỦ) lại cho mình. Bảo
thủ giữ gìn lại cho mình là vì chúng ta ưa thích hưởng thụ những vật chất đó.
Hưởng thụ tức là THỌ DỤNG. Chính vì con người ưa thích hưởng thụ mà đành chịu
muôn ngàn thứ khổ đau trong kiếp sống làm người. Từ duyên ái có thì duyên thọ
có, đó là một qui luật của 12 nhân duyên không làm sao bảo rằng không có được.
Cho nên cứ theo 12 nhân duyên thì những khổ đau của con người mở ra theo lối
nào chúng ta cũng biết rất rõ. Học 12 nhân duyên rất có lợi cho đời sống của
chúng ta. Khi chúng ta bị rơi vào duyên nào thì biết ngay, khi biết chúng ta
TÁC Ý không để thân tâm dính vào duyên đó, nhờ đó mà chúng ta thoát khổ, không
bị một ác pháp nào sai khiến hay tác động vào tâm chúng ta được.
Muốn biết và
đủ lòng tin với pháp môn này, không gì hơn là chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Từ
duyên của Ái là gì? Thọ là câu trả lời”.
Đúng vậy, vì
hưởng thụ những vật chất đó nên chúng ta thường cảm nhận thích thú. Bởi vậy, muốn
có cảm thọ thì phải có sự xúc chạm.
Ví dụ: Muốn
thưởng thức một miếng ăn ngon thì chúng ta phải ăn thực phẩm đó. Khi món ăn đó
gia chạm vào miệng lưỡi thì chúng ta mới cảm nhận món ăn ngon hay dở. Cho nên
những cảm thọ là nhờ có xúc chạm, nếu không có XÚC CHẠM thì CẢM THỌ không biết
gì cả.
Ví dụ: chúng
ta lấy tay sờ vào chiếc nệm mới mua thì biết ngay chiếc nệm mềm và êm ái. Đó là
do tay của chúng ta xúc chạm vào nệm. Cho nên, chúng ta hãy lắng nghe đức Phật
dạy: “Từ duyên của Thọ là gì? Xúc là câu trả lời”.
Xúc là sự va
chạm, nên khi có cảm thọ là phải có sự va chạm (xúc). Sự VA CHẠM càng nhiều thì
CẢM THỌ càng lớn. Người tu sĩ Phật giáo biết như vậy, nhưng khi va chạm với mọi
vật thường cảnh giác tác ý: “Các pháp là vô thường, là khổ đau, là nhân
quả. Hãy ra khỏi thân tâm ta. Chúng ta không chấp nhận một pháp nào cả. Hãy đi,
đi! Ở đây chỉ có tâm BẤT ĐỘNG, THANH THẢN, AN LẠC và VÔ SỰ”.
Cho nên, nếu
không có sự CẢM THỌ thì làm sao phải có sự ƯA THÍCH THAM ĐẮM, cho nên sự xúc chạm
là một điều quan trọng, vì vậy người tu hành cần phải quan tâm
lưu ý SÁU CĂN đừng XÚC CHẠM với SÁU TRẦN mà sinh ưa thích, dính mắc, chấp đắm.
Do không đề phòng sáu căn và sáu trần xúc chạm với nhau nên con người phải chịu
khổ vô cùng vô tận.
Chúng ta hãy
lắng nghe đức Phật dạy: “Từ duyên của Xúc là gì? Sáu Xứ là câu trả lời”.
Đúng vậy, do
XÚC CHẠM của SÁU XỨ nội và ngoại nên mới có thân tâm của con người mà đức Phật
gọi là DANH SẮC. Bởi vậy danh sắc không ngoài sáu xứ nội và ngoại mà có được. Vạn
vật trong vũ trụ do xúc chạm theo 12 nhân duyên này mà thành lập vũ trụ. Cho
nên trong vũ trụ hiện giờ các duyên đều xúc chạm, do đó mới có sự sinh diệt
liên tục không bao giờ dứt.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét