258-THIỀN CĂN BẢN: HỎI ĐẠO
CỦA TU SINH/ 4
THIỆN TÂM/ 1
Hỏi: Thưa đức Trưởng lão Thích Thông
Lạc, có nhiều điều con muốn hỏi Thầy, nhưng con ngại mất thời gian của Thầy, và
con thấy sức tu của con còn kém, cho nên con sẽ cố gắng suy tư nhiều hơn trước
khi hỏi. Nhưng con cũng xin phép Thầy cho con ghi những câu hỏi ra đây, để khi
nào có dịp con sẽ gởi những câu hỏi này cho Thầy. Còn chuyện trả lời thì tùy Thầy,
vì Thầy biết lúc nào trả lời, lúc nào không. Có lẽ cái tính ham
muốn hiểu biết của con mạnh quá, cho nên hay thắc mắc. Xin Thầy hoan hỷ tha tội
cho con.
Câu hỏi
1: Đức
Phật có dạy: “Cái thấy, cái nghe không phải của ta, không phải là của ta và
không phải là bản ngã của ta”.
Vậy cái
thấy ở đây có phải là cái biết của tính thấy hay không?
Cái nghe ở
đây có phải là cái biết của tính nghe hay không?
Cái biết ở
đây có phải là cái biết của ý thức hay không?
Nếu phải,
thì có thể gộp chung là cái biết không phải là ta, không phải là của ta và
không phải là bản ngã của ta? Cái biết ở đây là cái biết của 6 thức. Vậy tại
sao không thấy đức Phật nói về cái biết của mùi, vị và xúc?
Xin Thầy
giải thích rõ hơn cho con về điều này.
Đáp 1: Đức Phật đã dạy SÁU THỨC rõ
ràng:
1- Cái thấy ở
đây là CÁI THẤY CỦA MẮT, gọi là cái thấy của nhãn căn, chứ không phải cái biết
của tính thấy nào cả.
Cái thấy biết
ở đây là cái thấy biết của mắt, gọi là NHÃN THỨC.
2- Cái nghe ở
đây là CÁI NGHE CỦA TAI, gọi là cái nghe của nhĩ căn, chứ không phải cái biết của
tính nghe nào cả.
Cái nghe biết
ở đây là cái nghe biết của tai, gọi là NHĨ THỨC.
3- Cái biết ở
đây là CÁI BIẾT CỦA Ý THỨC, chứ không phải cái biết ở đây là cái biết của tính
biết nào cả.
Cái biết ở
đây là cái biết của ý căn, nên gọi là Ý THỨC.
Phật thường dạy SÁU CĂN, SÁU TRẦN và SÁU THỨC, nhưng quý vị không lưu ý, nên không nhớ. Sáu căn, sáu thức, sáu trần gồm có:
1. Nhãn Căn là con mắt; Nhãn Thức là cái biết của con mắt; Nhãn Trần là hình sắc của vạn vật.
2. Nhĩ Căn là lỗ tai; Nhĩ Thức là cái biết của lỗ tai; Nhĩ Trần là âm thanh của vạn vật.
3. Tỷ Căn là lỗ mũi; Tỷ Thức là cái biết của lỗ mũi; Tỷ Trần là hương vị của vạn vật.
4. Thiệt Căn là miệng lưỡi; Thiệt Thức là cái biết của miệng lưỡi; Thiệt Trần là mùi vị của vạn vật.
5. Thân Căn là cơ thể; Thân Thức là cái cảm giác của cơ thể; Thân Trần là tính mềm, cứng, nóng, lạnh của vạn vật.
6. Ý Căn là bộ óc (tri thức); Ý Thức là sự phân biệt của bộ óc; Ý Trần là từng tâm niệm quá khứ, vị lai và hiện tại.
Sáu căn, sáu
trần, sáu thức mới đầy đủ 18 giới của Phật giáo, để tạo thành duyên những Xúc,
Hữu, Thủ, Sinh, Ưu bi sầu khổ già chết. Muốn biết rõ các duyên này, nên đọc Thập
Nhị Nhân Duyên[2]. Người ta ít nói về Mùi, Vị
và Xúc, thì đó là một sự thiếu sót, chứ trong kinh Phật dạy rất đầy đủ. Nhưng
khi chúng ta học thì hay nhắc đến Sắc, Thinh, Hương (mùi) là xong, còn ít ai
nói đến Vị (cay, đắng, ngọt, bùi), Xúc (cảm giác êm, ấm, cứng, mềm), Pháp (những
niệm trong tâm, vọng niệm).
✿✿✿
Câu hỏi
2: Khi
ăn cơm có phải bắt buộc phải ngồi dưới đất hay không? Vì con thấy mỗi lần ngồi
dưới đất ăn cơm thì kiến nhiều quá, cho nên con chuyển sang ngồi trên ghế. Con
không biết có phạm giới hay không?
Đáp 2: Ngồi dưới đất ăn là khất sĩ, vì
đức Phật đã buông xả sạch, sống không nhà cửa, không gia đình, không có của cải
tài sản tiền bạc, chỉ còn ba y một bát, đi xin về ăn hàng ngày. Vì thế khi xin
có thức ăn, liền tìm nơi nào có bóng mát ngồi ăn cho tiện. Còn ngồi ăn
trên bàn ghế là lại thêm có bàn ghế, thì đâu gọi là đời sống ba y một bát. Khi
có phật tử cúng dường tại nhà, mời Phật và chúng Thánh tăng đến thọ trai, thì
Phật và chúng Thánh tăng vẫn ngồi trên bàn ăn uống hẳn hoi, nhưng ăn rồi thì đi
về, còn bàn ghế thì chủ nhà sẽ dọn dẹp. Cho nên ăn ngồi dưới đất tiện hơn ngồi
trên bàn, vì ăn rồi chỉ có đi rửa bát là xong, không có lau bàn, lau ghế, cho
nên rất tiện lợi, không thêm bận rộn, khiến cho đời sống luôn luôn VÔ SỰ.
Mục đích sống giải thoát ra khỏi cuộc đời này là tâm phải vô sự.
Ngồi dưới đất
hay ngồi trên bàn ghế không có phạm giới, nhưng ngồi dưới đất ăn cũng là Phạm hạnh
của người tu. Đó là một oai nghi diệt ngã xả tâm; một tế hạnh buông xả. Có bàn
ghế mà ngồi dưới đất ăn là không thức thời, cố chấp.
✿✿✿
Câu hỏi
3: Nhân
quả của một người đặt tình thương không đúng chỗ là gì?
Đáp 3: Đặt tình thương không đúng chỗ
là đặt tình thương theo thất tình, lục dục. Đó là đặt tình thương theo ác pháp;
tình thương đó là tình thương trong đau khổ: khổ mình, khổ người. Con có biết
thất tình, lục dục là gì chưa?
Thất tình gồm
có: Hỷ, Nộ, Ái, Ố, Ai, Lạc, Dục.
Lục dục gồm
có: Nhãn dục, Nhĩ dục, Tỷ dục, Thiệt dục, Thân dục, Ý dục.
Khi đặt lòng
yêu thương phải quan sát kỹ lòng yêu thương ấy có rơi vào bảy tình, sáu dục này
không. Nếu rơi vào thì lòng yêu thương này sẽ có sự khổ đau.
Ví dụ: Lòng
ghen tuông cũng là lòng yêu thương do ái dục, nên làm mình khổ, người khác khổ.
Lòng yêu thương ấy gọi là lòng yêu thương khổ.
✿✿✿
Câu hỏi
4: Ví dụ
bố thí sai thì nhân quả là gì? Bố thí vì lòng yêu thương, nhưng sau đó biết rằng
bố thí nhầm cho đối tượng thì nhân quả là gì?
Ví dụ một
lần con đang chạy xe ở thành phố Vũng Tàu, con thấy một anh thanh niên nằm bên
lề đường quằn quại ôm bụng trông rất tội nghiệp, như người đau dạ dày. Con ngừng
xe lại và quay lại ân cần hỏi thăm, và tính chở anh ta đi bệnh viện. Anh ta
không đi, mà vẫn nằm ôm bụng rên la. Đến giờ con phải đi làm, cho nên con cho
anh ta tiền gọi xe đến bệnh viện và tiền chữa bệnh, và nhờ ông chủ nước ngay đó
nếu cần thì gọi xe dùm, rồi con đi làm. Sau vài tháng, con thấy anh ta ở Sài
Gòn cũng với tình trạng như vậy. Lần này con đặt câu hỏi không biết thật hay giả
đây? Nhưng con nghĩ thôi, thật hay giả thì coi như đã giúp một lần,
và tự an ủi rằng ít ra mình không thờ ơ trước những cảnh khổ của người khác, và
con tiếp tục đi không dừng lại nữa. Con đặt giả thuyết nếu như anh ta đóng kịch,
thì coi như việc con làm là đặt tình thương không đúng chỗ, sai lệch. Vậy thì
có đáng trách là con thiếu tỉnh giác hay không?
Đáp 4: Bố thí không đúng pháp là bị
người lừa gạt, nên không làm lợi ích cho mình, vì mình bị gạt; không làm lợi
ích cho người, vì tạo duyên cho người làm ác nhiều hơn (lường gạt người khác).
Trong đức bố
thì đều do lòng yêu thương, nó là nhân quả thiện, nhưng nếu thiếu trí tuệ quan
sát, đối tượng được bố thí không thiện mà bố thí, thì đó là NHÂN QUẢ
ÁC, vì tạo duyên cho người làm ác nhiều hơn. Trường hợp của con, bố
thí bị lừa gạt như đem hạt giống tốt gieo trên đất xấu, khô, cằn cỗi.
Theo Phật
giáo nguyên thủy, bố thí phải có trí tuệ nhân quả. Khi thấy một người tàn tật
hay gặp một người bị tai nạn, hoặc một người ốm đau không tiền thang thuốc, đi
bác sỹ, hay đi bệnh viện; đây là nhân quả của những người này, họ đang trả vay,
nhưng có nhân duyên kiếp trước nên kiếp này mới gặp ta trong hoàn cảnh này. Vậy
ta nên giúp đỡ họ như thế nào cho đúng pháp?
Thấy người
tàn tật, biết rõ họ thật sự tàn tật thì giúp đỡ, còn gặp họ ở giữa đường thì ta
nên tránh, vì người tàn tật đều có chỗ ở do các nhà từ thiện hoặc Nhà nước
giúp, còn tàn tật ở ngoài đường là giả dối. Người tàn tật ở ngoài đường đi xin
ăn làm nhục đất nước đó. Chúng ta không nên cho những người ăn xin ngồi đường.
Người tàn tật bất hạnh trong xã hội đều có nhà dưỡng lão, nhà nuôi trẻ mồ côi,
nhà nuôi những người khuyết tật, nhà tình thương nuôi dạy trẻ lang thang, v.v…
Đó là trách nhiệm của Nhà nước, của những nhà từ thiện. Như vậy, đâu có cớ nào
lại có người ăn xin ngoài đường. Người bố thí cho kẻ ăn xin ngồi đường là không
đúng pháp, đó là bố thí vô tình tạo thêm những người lừa gạt người khác, và
cũng vô tình làm nhục đất nước (đất nước ăn mày).
Còn bố thí
cho người bệnh tật thì không nên trao tiền cho họ, mà đưa họ vào bệnh viện, đi
bác sỹ, nếu bác sỹ bảo đó là bệnh thật thì chúng ta mới bỏ tiền ra bố thí, còn
nếu chúng ta bận việc không đưa đi bác sỹ hay bệnh viện thì không nên bố thí. Bố
thí là giúp người, mà giúp người thì phải đem hết lòng ra giúp, chứ không thể bố
thí theo kiểu lấy có. Bố thí như vậy là tạo duyên cho kẻ ác làm ác thêm (lừa đảo).
✿✿✿
Câu hỏi
5: Thật
ra mà nói, con chưa hiểu rõ cách làm sao để tránh trường hợp đặt
tình thương không đúng chỗ. Ví dụ trong Tu Viện có 2 người con thấy rất thương
họ, đó là cô Nguyên Thanh và sư Chơn Niệm. Tại sao con thương họ? - Vì con thấy
mọi người ai cũng không thích hai người này.
Đáp 5: Đặt tình thương đúng chỗ là đặt
tình thương trong thiện pháp, nhưng tình thương của Phật giáo là tình thương đa
hướng, nên hướng thiện hay hướng ác đều đặt tình thương được cả. Thương yêu,
thương xót, thương hại mọi người, chứ không phải thương nhân quả của mọi người.
Cho nên nhân quả họ làm là họ phải gánh chịu, còn riêng chúng ta thương thì
chúng ta chỉ mong họ thấy được nhân quả, để đừng sử dụng nhân quả ác làm khổ
mình, khổ người. Nguyên Thanh và Chơn Niệm đều đáng thương, vì chúng ta biết chắc
là hai người chuyển mình theo không kịp lớp tu học, nên có những cảm nghĩ và
hành động sai lệch, khiến cho họ phải lìa xa các lớp học, vì vậy mà mọi người
không thương.
✿✿✿
Câu hỏi
6: Con
chỉ có dịp học chung với sư Chơn Niệm khoá đạo đức này thôi, nhưng con không
xem trọng những gì Sư làm sai, nói sai, mà chỉ để ý đến những mặt tốt của Sư để
học hỏi thôi, và lấy Sư làm đối tượng trong lớp để xả tâm. Nhưng
hình như con đặt tình thương không đúng chỗ thì phải, vì con thấy mọi người đều
khuyên Sư sửa cái này sửa cái kia, còn con thì không nói trước lớp, mà chỉ gặp
riêng thôi để tránh làm mất sự đoàn kết trong lớp. Và con thấy rất tội nghiệp
cho Sư, khi bị Thầy đưa ra quyết định vừa rồi.
Xin Thầy
chỉ dạy cho con biết làm sao để biết là mình đặt tình thương không đúng chỗ và
sai lệch. Thật tình mà nói, ai con cũng thấy thương hết, và con không muốn để
trong tâm hình ảnh xấu về ai cả.
Đáp 6: Hình ảnh xấu xa của họ là hình ảnh
của nhân quả ác. Đã biết là nhân quả thì còn để ý hành động ác đó để làm gì.
Cho nên thương người mà thấy cái xấu của người khác thì làm sao thương người được,
cái khó nhất là thấy cái tốt của người khác, cái dễ nhất là thấy cái xấu của
người khác.
Học đạo đức
mới thấy rõ mình là người thiện hay là người ác, nếu mình thấy lỗi người, nói lỗi
người thì mình là người bất thiện, người ác; nếu thấy lỗi người mà
không nói lỗi người, không bới móc lỗi người khác là người thiện.
✿✿✿
Câu hỏi 7: Giới đức và Giới hạnh phân biệt như thế nào?
Đáp 7: Muốn phân biệt giới đức và giới
hạnh thì nên phân biệt ĐỨC và HẠNH. Đức là chỉ cho những TÍNH THIỆN, còn hạnh
chỉ cho những oai nghi tế hạnh thuộc về HÀNH ĐỘNG THIỆN. Cùng một danh từ đạo đức,
có lúc ta gọi là đức, có lúc ta gọi là hạnh, do sự công dụng đạo đức lúc ở đức
hay lúc ở hạnh mà gọi; do sử dụng danh từ đạo đức lúc dùng làm chủ từ thì gọi
là Đức; lúc dùng làm động từ thì gọi là Hạnh. Cho nên phân biệt giới đức và giới
hạnh đòi hỏi chúng ta phải có tri kiến thấm nhuần đức hạnh, thì biết lúc nào là
đức và lúc nào là hạnh. Cho nên chúng ta càng học đạo đức thì càng thấm nhuần.
Ví dụ 1:
“Thương người như thể thương thân”, câu này dạy Đức Hiếu Sinh khẩu hành…
Ví dụ 2:
Chúng ta nên thương yêu mọi người vì mọi người quá đau khổ trong cơn bão số 9 vừa
qua. Câu này dạy Đức Hiếu Sinh khẩu hành…
Hai câu trên
là lời kêu gọi nên nó mang tính chất đạo đức, nên gọi là Đức.
Ví dụ 3:
Chúng ta đem thực phẩm, quần áo cứu trợ cho đồng bào bị hỏa hoạn tại chợ Quy
Nhơn. Câu này dạy Hạnh Hiếu Sinh thân hành.
Tại sao câu này gọi là Hạnh Hiếu Sinh? - Vì đó là hành động đi cứu trợ.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét