301-TÌM HÀI CỐT LIỆT SĨ, MỘT HÀNH TRÌNH ĐẦY BÍ ẨN / 1
“Tôi có
cô em gái, kém tôi hai tuổi (sanh năm 1929), tên là Vũ Thị Kính, thuở nhỏ gọi
tránh là Cánh. Từ hồi kháng chiến chống Pháp được biết đến cái bí danh Trần Thị
Khang. Cô tham gia cách mạng 16 tuổi, tỏ ra là một giao liên gan dạ, một cán bộ
phụ vận có uy tín. Năm 1950 cô là Huyện Ủy viên của Đảng bộ Phù Cừ (ĐCSVN), Bí
thư phụ nữ cứu quốc Huyện, người tổ chức chỉ huy đội nữ du kích Hoàng
Ngân trong Huyện. Tháng 6 năm đó, địch bắt được cô từ hầm bí mật, đưa về bót La
Tiến (bót đóng ngay trên bến đò La Tiến), là một bót khét tiếng tàn ác, một đồn
binh lớn án ngữ phía Nam tỉnh Hưng Yên, phía Bắc tỉnh Thái Bình và phía Tây tỉnh
Hải Dương. Chúng biết cô là ai, vì vậy đã dùng mọi cực hình tra tấn, hòng buộc
cô khai báo và đầu hàng. Trước khí tiết không lay chuyển của cô, chúng đã giết
chết cô và vất xác cô xuống sông Luộc. Sau ngày cô hy sinh, đội nữ du kích
Hoàng Ngân của Huyện đã phát động: “Tuần lễ giết giặc, trả thù cho chị Khang”.
Chánh phủ đã truy tặng cô Huân chương kháng chiến hạng nhì.
Huyện
Ủy và đội du kích Hoàng Ngân đã tổ chức đi tìm xác cô, nhưng không thấy. Đây là
nỗi ray rứt xót xa của gia đình tôi suốt mấy chục năm. Mặc dù vẫn biết rằng người
chết thì mọi nỗi đau cũng chấm dứt. Mẹ tôi hồi còn sống, thỉnh thoảng lại hỏi
tôi: “có tìm thấy xác em không?”. Tôi đành tìm lời an ủi: “Bao giờ chiến tranh
hết, con sẽ tổ chức việc tìm kiếm, chắc là được mẹ ạ!”. Nói thế mà lòng tôi muốn
khóc, vì biết mình bất lực trước nỗi đau của mẹ. Cả một dòng sông Luộc mênh
mông như thế trôi ra biển cả, biết tìm kiếm nơi đâu?
Mươi
năm lại đây, nghe tin nhiều người tìm được hài cốt người thân, bằng gọi hồn, bằng
ngoại cảm, bằng thấu thị. Tóm lại là bằng những phương pháp, được xem là thần
bí, chưa ai lý giải được. Tôi vốn được đào tạo theo tinh thần khoa học thực
nghiệm, cái gì chứng minh được mới tin là có, cái gì chưa chứng minh được thì dứt
khoát không tin. Trong đời, tôi chưa bao giờ tin có linh hồn, Thần, Thánh, ma,
quỷ. Ngay những ngày giỗ bố mẹ, tôi cũng không làm cơm cúng, không thắp hương,
chỉ sửa một lọ hoa tươi để tự mình tưởng nhớ. Vậy mà khi nghe những tin trên,
trong lòng tôi hé lên một niềm hy vọng mong manh: biết đâu đấy? Nếu bằng phương
pháp thần bí mà tìm được hài cốt em tôi thì có gì phải câu nệ? Miễn là có cái
gì đó để nhận biết hài cốt ấy đúng là của em tôi. Và điều này mới chính là điều
khó nhất. Sau hơn năm chục năm trôi dạt, hài cốt có còn gì không để nhận ra em
tôi? Nếu còn thì may ra là còn được hàm răng không nhuộm đen. Nhưng thời đó,
thiếu gì con gái không nhuộm răng đen? Đã có lần bạn bè mách bảo tôi một bộ hài
cốt vô thừa nhận mà đặc biệt là hàm răng không nhuộm đen. Lúc đó, chính tôi đã
phân vân: nhận một hài cốt mà trong lòng nghi hoặc, mỗi khi tưởng niệm thì có ý
nghĩa gì? Còn khám nghiệm AND ? Đó là chuyện xa vời. Trong tình cảnh bất lực của
chính mình và của khoa học thực nghiệm thì bất cứ phương pháp nào giải tỏa được
nỗi ray rứt trong tôi và gia đình tôi đều phải được xem trọng. Nghĩ thế tôi bèn
tìm cách tiếp cận các nhà ngoại cảm có tiếng tăm. Một số thông tin báo rằng hài
cốt vẫn còn, nhưng chưa có ai chỉ rõ được nơi chôn cất.
Giữa
lúc ấy thì tôi gặp chị Tuyết Nga là người đã nhờ ông Liên tìm được mộ bà mẹ bị
giặc sát hại từ những năm 60. Chị khuyên tôi nên tìm đến bạn chị là anh Nguyễn
Văn Nhã, một người nổi tiếng ở miền Nam, vì đã tìm thấy nhiều mộ liệt sĩ. Chị gọi
điện cho anh Nhã, và ngay chiều hôm đó anh bay ra Hà Nội.
Sớm
ngày hôm sau, ngày 25.7.1999, tôi gặp anh Nhã, anh chưa đến 50 tuổi, là một kỹ
sư Hóa, Đảng viên, nhiều năm làm công tác ở đoàn viên thanh niên Cộng Sản thành
phố Hồ Chí Minh. Theo anh nói thì anh mới có khả năng đặc biệt này từ trước Tết
và không được ai huấn luyện cả. Anh đã vẽ hơn sáu trăm ngôi mộ, tỷ lệ trúng đạt
sáu chục phần trăm. Có những trường hợp trúng đến mức chính anh cũng phải kinh
ngạc. “Thông tin” đến với anh như thế nào thì anh vẽ như thế ấy. Còn thông tin
từ đâu đến, trúng hay trật, đối với chính anh cũng là điều bí ẩn.
Trong
căn phòng làm việc của tôi, không có hương khói gì cả, anh hỏi tôi và vợ tôi mấy
thông tin đơn giản: Cô em tên là gì? Sinh năm nào? Hy sinh ngày tháng nào? Ở
đâu? Người đi tìm tên là gì? Anh lại hỏi bến đò La Tiến thuộc xã nào? Huyện Phù
Cứ thuộc tỉnh nào? Bến đò ấy có cây cầu không? (chứng tỏ anh không biết gì về
vùng đất đó cả). Rồi anh lấy một tờ giấy to và mấy cây bút màu ra vẽ bản đồ, vẽ
một cách thư thả, lưu loát, không gạch xóa gì cả. Mọi việc chỉ diễn ra trong
vòng mười phút.
Nhìn
vào bản đồ, tôi thấy anh vẽ con sông uốn lượn đường to đường nhỏ giao nhau, rồi
ghi: từ bến đò La Tiến đi về hướng Đông Nam thấy một trường học đi chừng 1 km6
thì đến một ngã tư, phía trái ngãtư thấy một quán tạp hóa có cửa màu xanh
dương, lúc đó rẽ tay phải, thấy một cái đình, đi chừng một km thì rẽ trái vào một
con đường nhỏ, đi chừng 60 mét thì rẽ phải, đi chừng 45 mét nữa thì đến mộ. Mộ
nằm trên đất cô Nhường 47 tuổi đối diện với mộ về hướng Tây là quán ông An 56
tuổi. Mộ chôn về hướng Tây, cách một gốc cây độ 4 mét, trên mộ có một khúc cây
dài 4 tấc, một cục gạch vỡ màu nâu đỏ và năm cây cỏ dại có hoa màu tím nhạt.
Rồi
anh hỏi tôi: Bao giờ thì đi tìm mộ? Tôi trả lời: Để chuẩn bị thì cũng phải 2 tuần
nữa. Anh nói chậm quá, nên đi sớm. Tôi quyết định: 3 ngày nữa thì đi. Anh nói:
tôi phải cho anh một tín hiệu để dễ tìm. Hai con bướm nhé? Tôi nói: Hai con bướm
thì sợ khó tìm. Anh ngẫm nghĩ mấy giây rồi nói: Vậy thì một bé gái nhé? Rồi anh
ghi tiếp vào tấm bản đồ 13h30 ngày thứ tư 28 tháng 7 sẽ có một bé gái chừng 11
tuổi, mặc áo hoa xanh đến gần mộ (Tôi thật không hiểu anh làm cách nào mà điều
được cho tôi một cô bé đến vào ngày đó, giờ đó) rồi anh dặn: Nếu anh đến sớm
thì năm cây cỏ dại có 10 bông hoa tím, nếu anh đến muộn thì chỉ còn 5 bông.
Ngạc
nhiên quá tôi hỏi anh: Anh không biết gì về vùng đất đó cả, vậy dựa vào cái gì
mà anh vẽ ra tấm bản đồ chi tiết như vậy?
Anh
nói: Tôi thấy trong đầu tôi hiện ra như thế nào thì tôi vẽ như thế nấy tôi cũng
chẳng hiểu nữa.
Tôi
lại hỏi: Còn những tên người kia? Tại sao gọi là đất cô Nhường, là quán ông An?
Anh
nói: Tôi thấy trong tai tôi như có âm thanh ấy có thể là Nhương, Nhường, Nhượng
gì đó, cũng có thể là 47 tuổi hay 87 tuổi, còn An thì cũng có thể là Am. Anh
còn dặn thêm: Có thể phải xem cái bản đồ này từ âm bản. Lời dặn này, lúc ấy tôi
không để ý lắm.
Vẽ
bản đồ trao đổi trong vòng nửa tiếng xong, anh Nhã chia tay tôi, để vội
vã bay về thành phố Hồ Chí Minh, nơi anh đang phải điều hành một công ty tư vấn.
Về
phần tôi, tin hay không tin thì vẫn phải làm theo chỉ dẫn của anh. Còn có cách
nào khác đâu?
Tìm
mộ ngày thứ nhất.
Đúng
hẹn ngày 28 tháng 7 cả gia đình tôi phóng về bến đò La Tiến, cách Hà Nội chừng
100 km. Chúng tôi chia nhau làm nhiều ngả, đối chiếu với bản đồ mà tìm. Tất cả
các ngả đều không tìm được những dấu hiệu khớp với bản đồ, trừ một ngả hướng thẳng
vào giữa làng La Tiến, hướng này do anh Đạt, một cán bộ về hưu có cái quán giải
khát ở bến đò, chỉ dẫn. Khi xem bản đồ, cụ Yến, cũng đang ngồi ở quán giải khát
nói: Cái bản đồ này vẽ theo đường ngày xưa, ang áng như bây giờ thôi, có mấy đoạn
đã được nắn lại. Tuy nhiên, đường từ bến đò đến nơi ghi là phần mộ lại rất ngắn,
chỉ bằng một phần ba cự ly ghi trong bản đồ. Tôi dùng điện thoại di động hỏi
anh Nhã, anh trả lời: miễn là tìm thấy các dấu hiệu đã ghi, nhất là 4 dấu hiệu
nơi phần mộ, còn cự ly thì có thể là do anh ước lượng không chính xác.
Lần theo
hướng ghi trên bản đồ và các dấu hiệu trên đường (trường học, đình, quán tạp
hóa có cửa màu xanh nước biển, đến ngã tư rẽ phải, rồi rẽ trái, rồi lại rẽ phải
tất cả đều đúng) chúng tôi đến đất nhà anh Điển, một nông dân kiêm thợ nề trên
60 tuổi. Cả hai vợ chồng đều gầy gò ốm yếu nhưng tốt bụng. Ông bà sẵn sàng cho
chúng tôi tìm bới hài cốt liệt sĩ, mặc dù không tin rằng đất trong đê lại có thể
có hài cốt liệt sĩ. Ông bà Điển cũng như nhiều người khác đều chỉ chúng tôi ra
dải đất bãi phía ngoài đê, cạnh vụng Quạ (gọi thế là vì có nhiều quạ bay tới vụng
để ăn xác chết bị cuốn vào vụng) mà từ nhà ông Điển nhìn ra thì về hướng Đông,
chưa đến nửa cây số cạnh vụng quạ, vẫn còn ba cái mộ vô thừa nhận. Chúng tôi đến
đó xem xét rất kỹ, nhưng không thấy một dấu hiệu nào như anh Nhã đã cho, đành
quay về nhà ông Điển, theo đúng bản đồ.
Giữa
mảnh đất rộng chừng hai sào, có một ngôi nhà gạch hướng Đông Nam, trước nhà là
sân gạch tường hoa, một dải vườn đẹp lơ thơ mấy vạt dây lang rồi đến một cái ao
to. Tiếp đó là đường làng, một cái đầm sen mênh mông, rồi đến con đê sông Luộc
chạy dài từ Tây sang Đông. Sau nhà là một vườn chuối được dọn sạch sẽ, không một
ngọn cỏ. Đầu hồi phía Đông là đường vào ngôi nhà. Vậy chỉ còn tìm kiếm ở đầu hồi
phía Tây. Vườn ở phía này rộng, trồng táo và mít um tùm, dưới gốc đầy cỏ dại,
toàn một loại có hoa bằng hạt thóc, màu tím nhạt. Tìm một ngàn cây thì được, chứ
tìm 5 cây thì biết chọn cây nào? Còn cành cây khô và mảnh gạch vỡ thì bừa bãi,
đâu cũng có. Sục tìm một hồi lâu, chúng tôi đành thất vọng quay ra.
Đứng
trước cửa nhà, nhìn về chân đê sông Luộc, chệch về phía Tây, là ngôi nhà của
anh An, 45 tuổi nhà xây bằng gạch để ở, chứ không bày biện như một quán hàng.
Anh cho biết vợ anh có một gian quán bán lòng lợn ở chợ La Tiến, hàng ngày gánh
hàng đến đó, nhưng có ai cần mua tại nhà thì vẫn dành lại để bán. Như vậy thì
nhà anh có đáng gọi là một quán hàng không? Tôi phân vân như cứ tạm cho là được
đi.
Còn
đất bà Nhường? Cả làng không có ai tên là Nhường hay Nhượng. Chỉ có một bà tên
là Nhương, khoảng 70 tuổi. Bà này thì tôi biết vì cùng hoạt động với em gái
tôi. Chính Bà mấy năm trước, thông qua Bà Tiến, đã nhắn tôi về nhận một bộ hài
cốt vô thừa nhận mà căn cứ vào hàm răng trắng, Bà cho là hài cốt của cô Khang.
Dấu
hiệu dẫn đến ngôi mộ thì có đủ, nhưng dấu hiệu của chính ngôi mộ thì không thấy.
Tôi đành chờ đến 13h30. Vào giờ này, giữa trưa hè oi ả, giữa cái làng hẻo lánh
giáp đê sông Luộc này thì kiếm đâu ra một bé gái mặc áo hoa xanh? Mặc dù vậy,
chúng tôi vẫn chia nhau đón các ngả đường dẫn đến nhà ông Điển. Đường sá vắng
tanh. Cả vùng như ngừng thở với ánh nắng chói chang.
Quá
10 phút rồi 15 phút. Bỗng một tốp thiếu niên ồn ào đạp xe từ cuối làng tới.
Nhưng tất cả đều là con trai. Mấy phút sau, có một tốp con gái cũng từ cuối
làng đi bộ tới. Chúng tôi giữ các em lại hỏi thăm. Các em chỉ nhà bà Nhương ở gần
ngã tư, sau cái đình. Ba em hăng hái dẫn chú em tôi tới đó, còn một em không muốn
mà đứng lại. Em mặc áo màu xanh lá cây, có hai bông hoa to in trước ngực em
khai tuổi 15, nhưng vóc người thì nhỏ hơn tuổi. Hỏi về những ngôi mộ vô thừa nhận,
em chỉ mấy ngôi ở vườn chùa ngay cạnh đó đây là mộ của những người chết đói năm
45. Em lại chỉ 3 ngôi mộ ở phía ngoài đê, cạnh vụng quạ. Chúng tôi đã đến đó
vào sáng nay. Em đứng lại với chúng tôi chừng nửa tiếng bên bờ cái ao to trước
nhà ông Điển mà không có mục đích gì cả, phải chăng đó là tín hiệu mà ông Nhã
điều cho tôi? Nhưng khai thác được gì ở em thì không được gì cả.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét