302-TÌM HÀI CỐT LIỆT SĨ, MỘT HÀNH TRÌNH ĐẦY BÍ ẨN / 2
Xế
chiều gần như mất phương hướng, tôi lại gọi điện cho anh Nhã. Anh hỏi: Có thấy
cái lạch nước không? Có thấy cái cống không? (dường như từ Sài Gòn, anh nhìn thấy
những cái đó!) rồi anh bảo tôi đi tìm ngôi nhà mà 4 mặt đều sơn màu trắng lốp,
trước nhà đầy hoa đỏ.
Cái
cống lớn xây bằng gạch cạnh đất chùa, kế nhà ông Điển, thì chính tôi đã ngồi
trên đó để hỏi chuyện bé gái. Còn cái lạch nước, hỏi ông Điển hồi lâu mới biết:
ba chục năm trước đây, chính cái đầm sen là một vùng ruộng trũng ở giữa có một
con đường bờ vùng chạy song song với một con lạch, dẫn nước qua cống của chùa
vào vùng ruộng mạ mà nay là đất ở của ông và mấy nhà chung quanh. Cuối những
năm 60, để lấy đất bồi đắp con đê sông Luộc, người ta đã biến vùng ruộng trũng
thành cái đầm sen bây giờ, nó chạy dài gần một cây số ven đê và ruộng vài trăm
mét. Con đường và cái lạch nước cũng biến mất trong lòng cái đầm sen ấy.
Chúng tôi
ngó nghiêng khắp làng để tìm “ngôi nhà mà 4 mặt đều sơn màu trắng lốp”. Chẳng
có cái nào cả, mọi nhà đều quét vôi vàng hoặc xám. Bỗng anh Tân Cương (một cộng
sự của tôi đã từng nhiều lần đi tìm mộ) chỉ vào cái quán bên đường, hay là cái
này? Đó là cái quán nước mà chúng tôi vẫn qua lại từ sáng đến giờ. Quán nhỏ và
thấp lè tè, xây bằng gạch, đủ kê một cái giường và một cái chõng bày bán mấy
gói kẹo và mấy chai nước ngọt. Quán mới xây, cả bốn mặt đều quét vôi trắng xóa.
Một cái quán nhỏ cũng có thể xem là một cái nhà được chứ? Tạm cho là như vậy.
Nhưng còn hoa đỏ? Tìm tòi hồi lâu, anh Tân Cương chỉ cho tôi cái đầm sen trước
mặt. Giữa mùa hè, đầm sen là cả một biển hoa đỏ có thể là như vậy chăng?
Chủ
quán là một bà lão hom hem. Nhà cụ giáp nhà ông Điển, về phía Tây, cụ xây cái
quán ngay cạnh đường làng, lối đi vào nhà cụ mà cũng là một cái bờ ao nhà ông
Điển. Hỏi tên tuổi thì cụ cho biết tên là Mân đó là tên chồng, còn tên thật của
cụ là Nguyễn Thị Nhờ, năm nay 81 tuổi.
Sục
sạo đến tối mịt, chúng tôi đành quay về Hà Nội. Tôi gọi điện cho anh Nhã.
Anh bảo tìm được cái quán trắng làm mốc là tốt rồi. Cự ly so với bến đò có gần
hơn, không sao. Có trường học, có ngã tư, có quán màu xanh dương, có cái đình rồi.
Có cái cống không? (tôi báo cáo cho anh biết kết quả điều tra được). Anh động
viên: nên tìm kiếm liên tục. Hôm nay chưa thấy thì ngày mai lại đi. “Chỉnh mộ
là một quá trình vất vả lắm đấy, không thể một lần mà trúng ngay được”.
Rồi
anh chỉ dẫn cho tôi ngày mai làm gì ?
Tám
giờ sáng phải có mặt ở cái quán trắng. Tôi hoặc con tôi (phải là ngườiruột thịt
của cô Khang) thắp 20 nén hương ở lối đi bên cạnh. Khoảng 8 giờ rưỡi, có
một con chó vàng nâu đến cách đó chừng 10 mét, nó nhìn mình xem mình có đi theo
nó không, hãy đi theo nó, giữ một khoảng cách. Nó sẽ đi hơn 100 mét, rồi dừng lại,
ngửi và bới. Nhớ lấy chỗ đó, rồi quan sát, tìm những dấu hiệu phần mộ như đã
ghi trên bản đồ.
Nếu
tín hiệu trên không xuất hiện thì chờ đến 8 giờ 30 - 9giờ tìm kiếm quanh vùng sẽ
thấy một con chó vàng nằm một chỗ như ốm. Đánh dấu lấy chỗ đó mà đào. Đào thấy
thì con chó sẽ hết ốm. Khi nào thấy tín hiệu thì gọi điện lại để anh chỉ dẫn tiếp.
Tìm
mộ ngày thứ hai.
Chúng
tôi lại đến làng La Tiến, làm đúng những việc mà anh Nhã dặn. Chúng tôi chia
nhau đi các ngả để xem có con chó vàng nâu nào tiến về phía quán trắng không.
Quá 8 giờ 30 mà không thấy tín hiệu thứ nhất xuất hiện, chúng tôi bèn chia nhau
đến các nhà quanh vùng. Nhà nào cũng nuôi chó vàng, thấy người lạ vào là chúng
nhảy ra sủa inh ỏi, không có con nào nằm một chỗ như ốm. Cô em tôi mấy lần vào
ra nhà cụ Nhờ, ngó nghiêng mọi xó xỉnh cuối cùng, cô phát hiện thấy phía sâu
bên trong gian nhà phụ, dưới gậm giường, có một con chó vàng nằm ệp. Chúng tôi
lần lượt vào ngó, nhưng nó vẫn nằm im, chỉ ngước nhìn mà không sủa. Hỏi chủ nhà
thì biết nó chửa, chê cơm mấy hôm nay. Tôi liền điện cho anh Nhã. Anh bảo: Tìm
kiếm trong vòng bán kính 10 mét xem có những dấu hiệu phần mộ không.
Từ
chỗ con chó nằm, tôi vạch một vòng tròn có bán kính 10 mét. Hầu hết vòng tròn
bao lấy nhà và sân gạch của cụ Nhờ, chỉ một mẩu nhỏ lấn sang dải vườn hẹp trước
tường hoa nhà ông Điển. Dải vườn này, hôm trước chúng tôi đã đi qua mà không
thèm để ý đến mấy vạt rau lang. Hôm nay tập trung vào một diện tích hẹp, anh
Tân Cương là người đầu tiên phát hiện ra một gốc cây đổ vùi lấp dưới lớp dây
lang, gốc cây to bằng bắp chân, dài hơn gang tay, nằm sát đất, trên thân cây lơ
thơ mấy cái chồi cằn cỗi. Ông Điển cho biết đó là cây nhót mà ông đã chặt đi
năm ngoái, nhưng chưa kịp đánh gốc. Cách gốc cây nhót về hướng Đông chừng hai
mét, chúng tôi thấy ngay nửa viên gạch vỡ màu nâu đỏ nằm cạnh một cành cây khô
to bằng cổ tay, dài nửa mét. Nhìn tiếp về hướng Đông chừng 3 mét nữa, dưới tán
cây cam thấp lùn, chúng tôi reo lên khi thấy cả một dãy cây hoa màu tím nhạt vượt
lên đám rau lang, đếm được đúng 5 gốc mỗi gốc mang hai bông hoa to và dài bằng
ngón tay. Cây hoa mọc theo một đường thẳng dài 3 mét từ tường hoa ra phía bờ
ao. Ông Điển cho biết mấy năm trước ông trồng làm cảnh, sau chán, vất ra vườn.
Sau
khi soát xét lại kỹ càng, tôi gọi điện cho anh Nhã. Anh bảo: Từ gốc cây đổ đến
dãy hoa tím, vẽ thành hình tam giác, rồi đứng vào giữa, đánh dấu lại. Lấy một
chiếc đũa cắm vào chỗ đó, rồi tự tay tôi (phải là người ruột thịt) đặt một quả
trứng lên đỉnh chiếc đũa, nếu quả trứng nằm im là đúng. Nếu quả trứng không nằm
im thì cắm chiếc đũa lùi ra nửa mét.
Bà
Điển vội vã rút từ ống đũa cho tôi một chiếc, rồi chạy vào ổ gà lấy quả trứng mới
đẻ. Nhìn chiếc đũa tre còn mới, tôi thầm nghĩ: Nghèo quá, đến chiếc đũa tre
cũng khẳng khiu! Với chiếc đũa này, lão Nhã đánh đố mình đây. Rồi tôi suy luận:
Chẳng lẽ xác cô em mình lại có sức hút mạnh hơn trọng lực trái đất ư ? Vấn đề
chỉ là ở chỗ ngắm cho thật cân và không được xúc động!
Tôi
loay hoay mãi với quả trứng. Ngắm nghía thật lâu rồi mới đặt xuống nhiều lần
như vậy. Đặt nằm rồi lại đặt đứng. Nó vẫn lăn bo xuống đất. Người tôi vã mồ
hôi. Mấy chục người chung quanh dán mắt vào quả trứng như nín thở, tôi nghĩ chỉ
tại cái đũa chết tiệt ! Tiết diện nhỏ quá mà lại không phẳng, tài gì mà đặt được
quả trứng cho cân!
Tôi
bèn lùi lại nửa mét, mặt vẫn hướng vào tường hoa. Cắm chiếc đũa thật thẳng rồi
nhẹ nhàng đặt quả trứng xuống như mọi lần. Kỳ lạ quá, nó nằm im trên đầu đũa, tựa
như có chất keo gắn vào đầu đũa. Tôi không tin có sự can thiệp của cô em tôi
(vì làm gì có linh hồn mà can thiệp? Mà nếu có thì linh hồn đâu phải là một lực
tác động vật chất?) nhưng vẫn thở phào nhẹ nhõm vì nếu không qua được thử thách
này thì không thể đi tiếp bước sau.
Tôi
gọi điện cho anh Nhã. Anh bảo: Lấy quả trứng làm tâm, vẽ một hình chữ nhật dài
2 mét, rộng 1 mét 2 rồi đào sâu xuống 1 mét 5 cho đến lớp cát đen. Hài cốt
không nằm sâu hơn lớp cát đen đó.
Lúc
ấy đã gần trưa. Chúng tôi tạm nghỉ, ra bến đò La Tiến ăn cơm hàng. Trời đang nắng
gắt bỗng ập xuống một cơn mưa như trút nước kèm theo gió to kéo dài gần một tiếng.
Chúng tôi bảo nhau phen này thì đền quả trứng của bà Điển thì cái chắc. Khi
quay về thì lạ quá, quả trứng vẫn yên vị trên đầu chiếc đũa chẳng lẽ khi mưa,
bao giờ cũng có hai giọt nước rơi cân bằng xuống hai đầu quả trứng? Còn gió to
nữa, chẳng lẽ nó không tác động gì đến quả trứng?
Để
chuẩn bị cho thợ đào đất, tôi gỡ quả trứng ra khỏi chiếc đũa hai tay tôi cảm nhận
thấy một sức hút nhẹ. Phải chăng nước mưa đã làm giãn hở vỏ trứng và chiếc đũa
tre, khiến cho quả trứng gắn chặt vào đầu đũa?
Hai
tốp thợ thay nhau đào. Sâu 1,2 mét thì hết lớp đất màu nâu là lớp “vượt thổ”, đến
lớp bùn đen pha cát, vừa đào, chúng tôi vừa soát xét từng xẻng đất đào lên xem
có hài cốt không? đến độ sâu 1,5 mét vẫn không thấy gì cả.
Tôi
gọi điện cho anh Nhã. Anh bảo: Phát triển về hướng Nam và đào sâu thêm 4 tấc nữa.
Chiều rộng của cái hố được mở thêm nửa mét ra phía bờ ao và đến tối mịt thì chiều
sâu đạt tới 2,8 mét. Vẫn không thấy gì cả. Chúng tôi quay về Hà Nội.
Tôi
gọi điện cho anh Nhã. Anh bảo:Thử đào sâu thêm vài tấc nữa. Thực ra thì cái hố
đã được đào sâu quá mức ấy rồi. Tôi cảm thấy “thầy” đã hết phép. Mặc dù vậy,
tôi vẫn quyết định ngày mai đi tiếp.
Tìm
mộ ngày thứ ba.
Qua
hai ngày, dậy từ bốn giờ sáng, mãi 11 giờ khuya mới về đến nhà, cái tuổi 72 của
tôi đã cảm thấy đuối sức. Tôi ủy nhiệm cho các con cùng bà chị tôi và anh Tân
Cương đi tiếp. Tôi dặn: Không đào sâu thêm nữa làm gì, chỉ soát lại đống cát
đen đào xới lên, họa may tìm thấy mảnh hài cốt nào thì đem về, nếu không
thì thu dọn chiến trường mà về. Họ làm đúng như thế.
Thấy
chúng tôi không thu được kết quả gì, nhiều cụ già, nhất là các cụ về hưu, xúm lại
bài bác: Đã bảo mà! Tìm ở ngoài đê, quanh cái vụng Quạ thì không lại đi tìm ở
trong đê! Làm gì có xác trôi sông vượt qua được con đê để vào tận trong đồng!
Chị Tiến và chị Nhương cũng có mặt, hai chị khuyên chúng tôi nhận lấy bộ hài cốt
răng trắng chôn ở góc đa phía trên bến đò.
Duy
có anh Thìn, con cụ Giám, hiện là Hiệu Trưởng trường cấp hai, thì nói: bố anh hồi
ấy có vớt được ba cái xác hai nữ một nam- kéo qua đê, rồi chôn ở cánh đồng này.
Cụ Giám, theo dân làng nói, là người rất nghèo (làm nghề đơm đó và đánh dậm)
nhưng bạo gan, nhà ai có việc đào huyệt, bốc mộ thì đều nhờ đến cụ, cả những
cháu bé bị chết, cụ cũng sẵn sàng vác lên vai đem đi chôn giúp. Từ hồi kháng
chiến chống Pháp, có nhiều xác chết nổi lên ở vụng Quạ, làng cũng giao cho cụ vớt
lên chôn cất. Cụ Yến xác nhận rằng cụ Giám được làng phụ cấp để làm việc đó, nếu
có xác chết chôn ở đây thì chỉ là nhờ tay cụ Giám thôi. Cụ Trọng thì nhất quyết
bài bác: làm gì có chuyện đó! Anh Thìn đưa ra thông tin trên là đưa vào tiết lộ
của cụ Giám, nhưng cụ Giám thì mất cách đây 18 năm. Hồi còn sống, cụ đã được tặng
bằng khen vì những thành tích trong kháng chiến chống Pháp.
Tôi
gọi điện cho anh Nhã. Anh nói: Nghe gia đình đã báo cáo tìm thấy đủ các dấu hiệu
thì tôi cũng tin, tuy rằng cự ly có phần không đúng. Bây giờ thì phải lật cái bản
đồ mà xem từ âm bản. Tôi hỏi: Như vậy có nghĩa là phần mộ sẽ nằm ở bên kia
sông, tức là trên đất Thái Bình? Anh nói: Phải vậy đó. Rồi anh dặn tiếp: Phải
tìm đến một cái vụng xoáy, “một cái vụng do nước xoáy vào bãi sông mà tạo
thành” ở đó có một xóm mới, dân mới ra ở đó khoảng hai chục năm, trong đó có cô
Nhường, có ông An. Mộ nằm trên đất cô Nhường, trên mộ vẫn những dấu hiệu như đã
chỉ.
Tìm
mộ ngày thứ tư và thứ năm.
Các
con tôi, vốn đã không tin vào phương pháp thần bí, đều không muốn đi tiếp. Các
lão già (chị và các em tôi) thì đều đã mệt mỏi. Chỉ có anh Tân Cương là vẫn vững
lòng tin, vì chính anh đã nhờ vào các nhà ngoại cảm mà tìm được mồ mả gia tiên.
Anh nhận giúp tôi tìm kiếm tiếp. Anh cùng anh Đạt vượt bến đò La Tiến sang đất
Thái Bình, đi dọc sông để tìm cái vụng xoáy, chốc chốc lại gọi điện thoại di động
về. Xế chiều, cách bến đò La Tiến chừng 8 cây số, một cụ già bảo anh: phía Thái
Bình không có vụng xoáy đâu. Vì nước sông ở đoạn này quật sang đất Hưng Yên. Cụ
chỉ sang vụng bà Khán Mỹ bên kia sông. Gọi thế là vì bà Khán Mỹ nhiều năm sinh
sống trên vụng đó bằng thuyền đánh cá. Vậy là lại phải qua sông để trở về đất
Hưng Yên. Cạnh vụng bà Khán Mỹ. Trên đất bãi có một xóm mới, trong đó có một chị
tên là Nhường, có một anh tên là An có mấy ngôi mộ vô thừa nhận, nhưng chẳng có
dấu hiệu nào khớp với bản đồ mà anh Nhã đã cho.
Anh
Tân Cương đi tiếp một ngày nữa, từ vụng bà Khán Mỹ ngược lên vụng Quạ. Nơi nào
có mộ vô thừa nhận là anh đến. Nhưng chẳng đâu tìm thấy đủ những dấu hiệu mà
anh Nhã cho.
Cuộc
tìm kiếm theo đủ mọi hướng đến đây xem như tắc tị. Cái tính hoài nghi khoa học
vốn có của tôi trỗi dậy: Tôi nghĩ: Lão Nhã này, hắn đánh đố mình! Hắn bày ra cả
một “trận đồ bát quái”, nào là dấu hiệu, tín hiệu, tên người và tên đất, rồi bảo
mình phải đi tìm cho đủ. Lục tìm cả cái đất nước này, chưa chắc đã có nơi nào
khớp được với cái trận đồ bát quái của hắn!
Nghĩ
thế rồi tự trách mình là vô lý. Đã chấp nhận đi theo “thầy Nhã mà tỷ lệ trúng mộ
chỉ đạt 60% thì lý gì lại thắc mắc khi trường hợp của mình rơi vào 40% kia?”.
Đã chấp nhận tìm đến con đường thần bí như nguồn hy vọng cuối cùng thì lý gì lại
đòi hỏi phải lý giải cái “Trận đồ bát quái kia?”

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét