305-GỌI HỒN/ 3
- Đào hết
lớp đất vượt thổ thì Hằng bảo thợ ngừng đào. Cháu nhảy xuống hố, lấy dầm gạt nhẹ
từng lớp cát đen. Chỉ hơn một gang tay thì vướng vào thanh củi mục, nạy lên, thả
vào nước thì nhận ra đó là một khúc tre già, thịt tre đã bị phân hủy hết, nhưng
xơ tre và đốt tre thì vẫn còn nguyên. Khúc tre dài hơn một gang tay, đường kính
tương đối lớn, không thể tra vừa bất cứ một loại xẻng hay cuốc nào, chỉ có thể
tra vừa cái thuổng hình lưỡi mai (mặt phẳng bề ngang nhỏ hơn lưỡi xẻng, nhưng
dài hơn lưỡi xẻng).
- Mọi người
đều kinh ngạc khi biết thông tin về cái thuổng đã được báo trước. Riêng tôi thì
mừng khôn xiết. Vì đây là dấu hiệu đáng tin cậy nhất để nhận biết nấm mộ này
đích thực là mộ em gái tôi. Cái cán thuổng đã bị vùi dưới đất cách đây 50 năm,
người đời không ai ngụy tạo ra nó được. Dấu hiệu đó lại được linh hồn mách bảo
cho tôi chính ngày trước khi khai quật. Người đời không ai nhìn thấy mà mách bảo
được. Còn sự chính xác thì đạt đến mức chi tiết. Thú thật, khi nghe anh
tôi nói đến cái cán thuổng, tôi nghi ngờ : Hoặc là anh tôi nhận định sai, hoặc
là cháu Hằng dịch sai. Vì người đào huyệt phải dùng mai, xẻng cuốc, chứ
sao lại dùng thuổng? Lúc ấy tôi chỉ nghĩ đến loại thuổng thông dụng nhất loại
có lưỡi hình vũm để đào gốc cây, chứ không nghĩ đến loại thuổng hình lưỡi mai để
đào đất, tác dụng giống như cái mai nhưng khỏe hơn cái mai. Loại thuổng này
cũng còn nơi gọi là mai.
- Sau khi
tìm thấy cái thuổng, chỉ gạt vào lớp cát mỏng là thi hài em tôi hiện ra. Khi
chôn, người ta đã đặt em tôi nằm nghiêng, người hơi cong, mặt hướng ra vụng Quạ,
đầu về hướng Tây Bắc, chân về hướng Đông Nam. Trùm lên sọ là một mảng tóc đen
nhánh, rồi đến những đốt xương cổ nhìn rất rõ. Nhưng khi bốc lên thì tóc rụng
ra ngay, những đốt xương nguyên vẹn gãy ra như những chiếc bánh bích quy thấm
nước. Cháu Hằng hỏi cô Khang: Răng cô ở đâu, để cháu mang đi đãi. Cuối cùng tìm
được 5 chiếc răng. Tôi xem thì đúng là răng trắng, nhưng do ngâm lâu trong bùn
nên ngả sang màu xám và đen xỉn. Theo đúng mệnh lệnh của anh Sơn, chúng tôi bốc
tất cả số bùn đất theo hình người nằm cong, bỏ vào túi mang về. Cháu Hằng tìm
mãi không thấy chiếc còng sắt. Cháu hỏi cô Khang, cô cũng không chỉ được. Tôi
nhận định: có thể là nó đã rỉ đất qua 50 năm trong bùn.
- Lúc này
thì Hằng không dịch, nhưng hôm sau, cháu nói với tôi: Lần này đi tìm mộ cô
Khang, cháu thương cô quá. Lúc tìm được răng rồi, mấy người ở trên miệng hố nhắc
cháu tìm móng tay. Cháu bèn hỏi cô: Móng tay của cô ở chỗ nào cô chỉ cho cháu.
Cô giơ hai bàn tay lên trước mặt cho cháu, nói: Chúng nó rút hết móng tay của
cô rồi, còn đâu mà tìm!
- Tôi vô
cùng kinh ngạc, vì điều này chỉ mình tôi biết. Sau khi em tôi bị giặc sát hại.
Huyện ủy Phù Cừ gửi riêng cho tôi bản báo cáo gửi lên cấp trên (Trước đó, tôi
là phó bí thư tỉnh ủy Hưng Yên, có nhiều gắn bó với Huyện Phù Cừ) kể rõ em tôi
bị bắt, bị tra tấn và bị giết như thế nào. Trong những cực hình mà địch sử dụng,
có việc dùng kìm rút hết móng tay rồi cắm kim vào đó, dí điện vào hai đầu vú,
thọc gậy vào âm hộ, treo ngược lên cành cây mà đấm đá. Tôi không muốn một ai
khác trong gia đình phải chịu đựng những nỗi thương xót như tôi, vì vậy đã giấu
kín những tin này. Nay được cháu Hằng kể lại, tôi tin chắc người nằm dưới mộ
đích thực là em gái tôi.
- Cháu Hằng
lúi húi tìm kiếm và chỉ đạo mấy người giúp việc, thỉnh thoảng lại nhô đầu lên
nói chuyện với những người ngồi trên miệng hố. Bỗng Hằng nói: Có một cụ cứ tủm
tỉm ngồi nhìn, không biết có phải là cụ Giám không? Rồi Hằng cất giọng, lễ phép
nói :
- Cháu
chào cụ ạ. Cụ cho phép cháu được biết quý danh của cụ.
Lắng
nghe hồi lâu, Hằng nói như reo lên:
- Cụ An!
Rồi Hằng
tự giới thiệu mình cùng gia đình đi tìm hài cốt cô Khang, đề nghị cụ giúp đỡ.
Cụ An
nói: Tôi là hàng xóm, nhà tôi ở vệ đê, bên kia đầm, lần nào các bác về đây mà
tôi chả biết. Tôi nhớ, đêm hôm ấy, vào lúc gà gáy canh hai, ông Giám qua nhà
tôi, hỏi mượn tôi cái mai. Tôi hỏi để làm gì? Ông Giám: Suỵt! Để chôn người chết
trôi. Tôi nhìn ra thì thấy một cái xác cụt đầu, biết ngay là cán bộ cách mạng. Ở
chỗ kia kìa có cái rãnh nước, ông Giám kéo mấy cái xác vào rãnh nước, đến đây
là chân ruộng mạ. Ông Điển mới ra ở đây thôi, chứ ngày ấy là ruộng mạ, thuộc chủ
khác.
Cháu Hằng
đưa ảnh cô Khang, hỏi cụ có nhận ra người chết được không? Cụ An nói: Bà này là
thân nhân của ông cán bộ trước là tỉnh ủy ở đây. Nhưng chôn cất như thế nào thì
cả tôi, cả ông Yền, ông Trọng đều không biết gì đâu. Chỉ có ông Giám là biết
thôi. Để tôi đi tìm giúp ông Giám.
Một lúc
lâu cụ An đi cùng với cụ Giám về. Hằng nói nhỏ: Cụ này già thế nhỉ! Rồi Hằng tự
giới thiệu và nêu ra đề nghị: nhận diện người chết qua tấm ảnh cái còng sắt nằm
ở chỗ nào?
Cụ Giám
nói: Đêm tối, tôi chỉ thấy loáng thoáng thôi. Xác ngâm lâu đã trương lên rồi, mặt
mũi thì nhìn không rõ. Tóc thì không vấn như thế này đâu, mà cắt ngang gáy như
cô bây giờ, nhưng xõa xượi dưới nước. Lần ấy tôi đem về đây không phải một người,
mà ba người cơ. Tôi kéo người phụ nữ lên trước, cứ thấy vướng. Thì ra tay trái
cô ấy xích vào tay phải người đàn ông. Khi chôn, chẳng lẽ lại chôn hai người một
hố, tôi tuột tay một người ra khỏi cái vòng. Tôi chôn người phụ nữ ở đây, còn
người đàn ông thì ở chỗ kia. Sức tôi cũng chỉ kéo được đến thế. Khi tôi chôn
thì xác bị trói đã cứng, không nắn thẳng ra được, đành đặt hơi nghiêng, mặt hướng
ra sông cho mát mẻ. Còn người phụ nữ nữa, tôi chôn ở góc kia (cụ chỉ ra phía gốc
nhãn) nhưng bây giờ thì đã tụt xuống ao rồi hình như lúc bị chết bà ấy đang có
chửa.
Tân Cương
nói: Một số người không thể hiểu được xác chết trôi sông lại có thể vào được đến
đây.
Cụ giám
nói: Cái con mẹ Tiến nó cứ mồm năm miệng mười, chứ làm sao mà nó biết được bằng
tôi. Ở ngoài kia nước cả, không đem vào đây thì vùi làm sao được? Cụ nói tiếp:
Điều này thì tôi chỉ nghe phong phanh thôi. Tụi lính đóng ở đồn nó bảo người phụ
nữ bị giết đêm hôm ấy là bà bé của tay xếp bót.
Cụ An cãi
lại: Ông thì chỉ được cái ăn no vác nặng, chẳng có hiểu biết gì. Có lần ông
chôn một anh bộ đội, ông lại bảo thằng lính dõng. Tôi thì không được kéo xác
như ông, nhưng việc này thì tôi biết rõ. Có một người phụ nữ du kích bị bắt, thằng
xếp Bách dụ làm vợ bé không được, nó đã giết đi. Ở bót này có một thằng quan tư
là quan thầy người Pháp, còn thằng Bách tuy là tay sai nhưng cũng được gọi
là (thằng Bách lấy vợ người La Tiến, dân đều biết rất rõ về nó).
Trời đã xế
chiều. Mọi người hối hả thu dọn.
Hằng nói:
Bác Sơn bảo: Còn cái chân của cô, moi sâu vào mà bốc. Bác bảo cứ bình tỉnh! Từ
sáng, bác đã rải quân canh phòng từ đầu làng rồi, không cho phép quấy rối. (Tôi
không biết thực hư thế nào, nhưng lần nào bới trước có cả trăm người vây vòng
trong vòng ngoài, còn hôm nay thì chỉ có mấy đứa trẻ). Bác bảo: Được bà chị xuống
với em, chẳng giúp được việc gì, chỉ ngồi khóc!
Tân Cương
tưởng anh tôi nói về cô em dễ xúc động của tôi, liền chêm vào: sáng nay bà ấy cứ
nhất định đòi đi.
Hằng cải
chính - Bác Sơn nói là nói đến bà chị - Bác Nghĩa. Từ nãy, bà già cứ ngồi một
chỗ khóc: Nhà có sáu chị em gái, ai nấy đều có phận, đâu đến nỗi nào, riêng em
tôi giỏi giang xinh xắn nhất nhà thì thế này! Không tìm được xác em tôi,
tôi chết cũng không nhắm được mắt. Bây giờ tìm được em thì mình cũng đã ra người
thiên cổ rồi!
Bất chợt
nghe thấy con số 6, tôi vội bấm đốt ngón tay: 6 hay 5 nhỉ ? đúng là 6.
Bác Sơn
(như hiểu ý anh Tân Cương) nói: Cho cái cô Nam nhà tôi xuống đây thì chỉ được cái
bù lu bù loa, chẳng cho ai làm gì. Tính cái con ấy nó vậy!
Cô Khang
nói: Sau lần gặp cô em, ông anh tôi đã về bốc cát lập ngay 7 bát hương, mỗi người
một bát! Đúng là một cuộc cách mạng với ông anh tôi! Em Khang cảm động khi nhận
tấm lòng của anh Phương, chị Thủy.
Cụ An
nói: Bà cô là liệt sĩ, sao không làm lễ truy điệu rồi hãy mang về quê?
Bác Sơn
nói: Hôm nay cập rập quá, gia đình chuẩn bị không kịp. Hôm nào đưa về nghĩa
trang liệt sĩ của huyện, sẽ làm lễ truy điệu.
Cô Khang
nói: Cậu Quỳnh còn giữ những giấy tờ, bằng khen của chị không? (Quỳnh đáp: Bằng
khen và huân chương của chị em vẫn giữ). Hôm nào làm lễ truy điệu chị ở nghĩa
trang liệt sĩ, cậu nhớ mang theo.
Tôi thật
không ngờ; người chết đã 50 năm mà vẫn quan tâm đến những vinh dự của
mình nơi trần thế!
Hằng nói:
Cô cười bảo: Cụ Giám ạ! Cụ nói oan quá, đã được làm bé ngày nào đâu? (mọi người
cùng cười). Nhưng cụ nói đúng đấy. Ngày xưa ai cũng gọi là cô Khang tóc dài,
nhưng khi bị bắt, nó đã cắt cụt hết tóc. Trong việc chôn cất các liệt sĩ ở đây,
cụ là người có công nhất: Chúng tôi rất biết ơn cụ.
Công việc
thu vét hài cốt xong xuôi thì mặt trời sắp lặn. Mọi người vây quanh gốc cây vải,
nơi đặt bàn thờ tạm. (Sau này Hằng kể lại: Suốt ngày cô Khang và bác Sơn quanh
quẩn ở đó, buổi chiều thì bác Nghĩa cũng ngồi ở đó ôm lấy tấm ảnh, cụ An và cụ
Giám thì ngồi ở xa hơn, về phía tường hoa).
Cô Khang
nói lời cảm ơn đối với gia đình bác Điển, bác Đạt, nhờ bác Điển chuyển lời thăm
hỏi đến chị Nhương, chị Tiến.
Nay tôi về
Mỹ Hào quê tôi, về với anh tôi. Nằm tại đây còn một bộ hài cốt, gia đình người
ta cũng sẽ đến bốc về. Chỉ còn chị Bê, hài cốt không còn gì. Nhờ bác Điển hương
khói cho vong hồn chị, chị sẽ phù hộ cho. Hồi đi hoạt động lấy tên là Nguyễn Thị
Bê, nhưng tên thật của chị là Nguyễn Thị Út (Mấy người làng ồ lên: bà Út! Thế
mà tìm kiếm mãi!)
Cuối cùng
cô dặn: Nhờ bác Điển đem mâm lễ phát lộc cho các cháu.
Chúng tôi
đưa hài cốt em tôi về nhà, và 2 hôm sau, đưa về nghĩa trang liệt sĩ của huyện,
có mặt đông đủ họ hàng nội ngoại. Sự xúc động được đón người thân sau 50 năm
cách biệt xen lẫn với niềm tự hào về người con gái của dòng họ đã hiến cuộc đời
mình cho cuộc sống hạnh phúc ngày hôm nay”.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét