320-LINH HỒN TƯỞNG/ 2
Ngài chấp nhận
cõi địa ngục, là chấp nhận những việc làm ác của con người. Những hành động ác
đó sẽ mang đến cho họ một cuộc sống tai ương, họa khổ, bất an. Đó là cảnh giới
địa ngục, tại thế gian này, chứ không có cõi địa ngục nơi nào khác cả.
Cho nên,
“Thiên Đàng” hay “Địa Ngục” đều ở tại cảnh giới thế gian này, do chính bàn tay,
khối óc, lời nói của con người tạo ra, chứ không phải có cảnh giới Thiên Đàng,
Địa Ngục có thật để trừng phạt và khen thưởng con người.
Theo giáo lý
của Đức Phật dạy: “chẳng có ai ban phước giáng họa cho con người, mà
chính con người tự ban phước giáng họa cho mình”. Ngài chấp nhận cảnh
giới Niết Bàn là chấp nhận một trạng thái tâm hồn đoạn diệt lòng ham muốn và
các ác pháp.
Ngài không
chấp nhận thế giới siêu hình huyễn hoặc, do tưởng tri bịa đặt ra để lừa đảo, lường
gạt người khác, tạo cảnh giới mê tín, khiến cho con người tiền mất tật mang, mà
chẳng ích lợi gì cho cuộc sống.
Ngài thường
cho thế giới đó là thế giới bóng dáng của thập nhị nhân duyên, thế giới tưởng
tri của con người, vì vô minh chẳng rõ nên lầm chấp là có thật mà thôi.
Thời đại đức
Phật ra đời là thời đại mà tình trạng dân trí còn thấp kém, lạc hậu, nên họ thường
sống trong tưởng tuệ, không thể hiểu được thực thể của các pháp, lại luôn luôn
bị các nhà tôn giáo “tưởng” dồn nhét vào đầu óc họ những hình ảnh thần linh huyền
bí thần thông siêu việt, những linh hồn ngự trị ở cây cao bóng mát, những ma
thiêng như đom đóm lập loè trong đêm tối, những vị thần linh khổng lồ vĩ đại, đấng
Ngọc Hoàng Thượng Đế đầy quyền uy, sáng tạo vũ trụ, cai trị vũ trụ, xử phạt,
giáng họa, ban phước cho cả loài người và chư thiên.
Muốn cho thế
giới tưởng đó hoạt động một cách hiệu nghiệm, các nhà tôn giáo dùng năng lực tưởng
ấm của mình, bằng cách “ức chế ý thức và ám thị tưởng ấm”, khiến cho ý thức phải
ngưng nghỉ, tưởng thức hoạt động. Muốn cho ý thức ngưng hoạt động và tưởng thức
hoạt động các nhà tôn giáo phải tọa thiền, tụng kinh, trì chú, niệm Phật, luyện
bùa, luyện chú, ám thị, kệ tụng kêu gọi âm binh, tạo cảnh hồn ma, phách vía mờ
mờ, ảo ảo, nói chuyện quá khứ, vị lai, trị bệnh, trừ tà, ếm quỷ, trừ ma linh hiển,
khiến cho người ta quá sợ hãi và tin tưởng.
Cũng do thế
giới siêu hình huyền ảo đó, bằng cách này hoặc bằng cách khác, các nhà tôn giáo
tưởng giải ra mọi hình thức trừu tượng ảo ảnh làm cho con người đang sống trong
tai ương, hoạn họa, bệnh tật khổ đau của nhân quả và đứng trước cảnh thiên tai,
thủy tai, hỏa tai, địa họa, sấm sét kinh thiên động địa, làm sao con người
không sợ hãi, khiếp đảm và không tin tưởng thế giới siêu hình được.
Vì sợ hãi,
con người phải xin gia nhập vào tôn giáo để nương tựa, nhờ sự gia hộ, cứu độ của
đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, Chúa, chư Phật, chư Bồ Tát, v.v… Từ đó con người đặt
trọn niềm tin sống trong thế giới siêu hình tưởng, một thế giới hình bóng, mà
không biết cứ ngỡ rằng đó là thế giới siêu hình chơn thật, họ tin đến khi họ chết
bỏ thân này sẽ trở về thế giới siêu hình đó. Vì vậy mọi việc làm thiện ở đời
này, đều hồi hướng cầu mong được chấp nhận để về nơi Thiên đàng ấy. Đó là ảo tưởng
của con người thời xa xưa, và ngay cả con người thời khoa học bây giờ cũng đang
ở trong tâm nguyện như vậy.
Thế giới
siêu hình này đã ăn sâu vào tâm trí, suy nghĩ, tin tưởng của con người, trở
thành một truyền thống lâu đời, khó mà gọt sạch được trong thời gian ngắn, mặc
dù hiện giờ có người đã biết đó là một thế giới tưởng (thế giới không thật
có).
Tuy biết vậy
nhưng cũng không thể bỏ được. “Vả lại, trí hữu hạn của con người, không tài
nào họ hiểu sự vật đúng như thật được, nên dù sao họ cũng phải tin rằng có
thế giới siêu hình.”
Đạo Phật ra
đời, trong một giai đoạn con người đang sống trong thế giới tưởng, chịu ảnh hưởng
của các tôn giáo thần quyền rất sâu đậm, nên khó thuyết phục để con người đập
phá thế giới siêu hình một sớm một chiều được. Vì vậy, đức Phật nói thẳng, nói mạnh,
ai muốn hiểu sao tùy ý, sáng suốt thì nhờ, vô minh mù mờ thì chịu.
Cho nên, có
những bài kinh đức Phật nói rất mạnh để xác định rõ ràng thế giới siêu hình
không có, chỉ là tưởng tri.
Đọc kinh
sách Nguyên Thủy, ta nhận xét rõ đạo Phật ra đời quyết đem lại một sự hiểu biết
thật sự cho con người, một cuộc sống chơn thật, khiến cho con người không còn lầm
lạc để thoát ra khỏi cảnh khổ đau, bất an, bất toại nguyện, v.v…
Pháp môn của
Ngài tu tập, thiết thực, cụ thể, rất khoa học, không mơ hồ, trừu tượng, viển
vông, thực hành để thoát khổ của kiếp làm người.
Muốn thoát
kiếp khổ làm người, thì phải thực hiện một đời sống Phạm hạnh của một tu sĩ Phật
giáo (giới luật) và tập tỉnh thức trong từng tâm niệm của cuộc sống, không làm
khổ mình, khổ người bằng ý thức cụ thể, rõ ràng; đối với các pháp, luôn luôn
lúc nào cũng cảnh giác không để tưởng thức xen vào. Vì có tưởng thức xen vào,
thì mất ý thức tỉnh giác đối với các pháp, lúc nào tà niệm cũng hiện tiền, có
tà niệm thì có ác pháp sanh khởi; ác pháp sanh khởi thì con người phải chịu khổ
đau. Khi con người có khổ đau, có tai nạn, có bệnh tật, v.v… thì thế giới siêu
hình tưởng phải đến với họ.
Khi đức Phật
còn tại thế, người ta đặt trọn niềm tin ở Phật, nhờ thế mà có một số người sống
đúng Phạm hạnh như Phật nên mới tu chứng đạt chân lí thật sự, vì sống theo
gương hạnh của Phật, cho nên thoát ra khỏi kiếp khổ của con người, làm chủ sự sống
chết, luân hồi. Đến khi đức Phật và các bậc Thánh Tăng nhập diệt, không còn ai
làm gương hạnh, nên Phạm hạnh không còn với những bậc phàm Tăng. Giới luật bị bẻ
vụn, không còn ai giữ gìn nghiêm túc, sống phóng dật theo dục lạc thế gian, ăn
ngủ phi thời, sống không thiểu dục tri túc và không phòng hộ sáu căn. Từ đó các
Ngài dựa vào pháp môn của ngoại đạo triển khai thành kinh sách Đại Thừa phát
triển, thường lý luận để bảo vệ sự phạm giới, phá giới của mình, hòng che mắt
tín đồ, biến dần giáo pháp của đạo Phật thành một giáo pháp mê tín: Phật giáo
biến thành thần giáo, đức Phật biến thành ông thần chuyên làm việc gia hộ ban
phước. Pháp môn của Phật dùng để trau dồi thân tâm, sửa những lỗi lầm, xa lià
ác pháp, viễn ly tâm ham muốn, và tu tập nhập các loại định làm chủ sanh, già,
bệnh, chết. Thế mà bây giờ lại biến thành giáo pháp tụng niệm, cúng tế, trừ tà,
ếm quỉ, trị bệnh, cầu an, cầu siêu, v.v… Đại Thừa phát triển dựng lên 33 cõi trời,
và vô số cõi Phật, có một cõi Cực Lạc Tây Phương rất lý tưởng của loài người, một
bản thể siêu việt vĩ đại (Phật tánh) thường, lạc, ngã, tịnh, an lạc và bất biến
mãi mãi trường tồn. Kể ra tất cả các tôn giáo trên thế gian này, không có một
tôn giáo hữu thần nào hơn được Phật giáo Đại Thừa.
Theo tưởng
giải, dựa vào giáo pháp của ngoại đạo, kinh sách phát triển Đại Thừa đã dìm mất
giáo pháp chơn chính của đạo Phật, đến giờ này, ngay chính vào thời đại của chúng
ta là thời đại khoa học hiện đại, thế mà những con người có học thức, có trình
độ trên đại học, vẫn còn tin có thế giới siêu hình và cũng còn mê tín như những
người dân lạc hậu xưa kia, thì làm sao những người dân lao động, thiếu học
không tin được.
Các học giả
Đại Thừa giáo rất khéo léo, đem tất cả giáo lý của ngoại đạo pha trộn lại, vay
mượn giáo pháp Nguyên Thủy Phật giáo, biến thành giáo lý Phật giáo Đại Thừa, nhờ
đó dễ bề lừa đảo tín đồ Phật giáo, trong mọi giai cấp con người.
Trong khi giới
bình dân ít học, kiến thức hiểu biết còn hạn hẹp, trước cảnh tai ương, hoạn họa,
bệnh tật nan y; trước cảnh thiên tai, dịch họa; trước cảnh bão lụt, địa chấn, hỏa
sơn, khiến cho con người khiếp đảm, sợ hãi, trong sự khiếp đảm sợ hãi đó con
người tưởng ra những vị thần linh có đầy đủ oai lực, có sự ban phước và cũng có
sự giáng họa, theo hành động thiện ác của mỗi người. Lợi dụng tưởng tri mê tín
này của người bình dân, các tôn giáo xây dựng thế giới siêu hình, biến thành
cõi Thiên Đàng và Địa Ngục, có chư Phật, Thánh, Tiên, Thần, Ngọc Hoàng Thượng Đế,
Diêm la, Thủy phủ, tà, ma, quỉ quái, v.v… Xây dựng thế giới siêu hình xong các
vị giáo chủ sản xuất những loại kinh, cúng tế, tụng niệm, cầu an, cầu siêu, làm
lành, bố thí, phóng sanh và còn kêu gọi cúng dường trai Tăng, xây chùa, cất
tháp, lập miếu, dựng đình, v.v…
Giới trí thức
có hiểu biết hơn, thì không tin sự mê tín vu vơ đó, lại tin vào sự mê tín trừu
tượng như: Bản Thể Vạn Hữu, Tâm, Tánh, Phật Tánh, v.v… Do đó họ chạy theo những
pháp môn thiền định, tu tập để mong “Kiến tánh thành Phật”. Thật là buồn cười
cho mọi người. Khi thấy tánh thành Phật thì làm lợi ích gì cho mình, cho
người, hay chỉ dùng ba tấc lưỡi lừa đảo người khác. Thấy tánh thành Phật có hết
tâm tham, sân, si không? Có làm lợi ích gì cho kiếp sống của con người không?
Hiện giờ biết bao nhiêu người đã kiến tánh thành Phật mà đã hết tâm tham, sân,
si chưa? Đã thành Phật chưa? Phật như thế nào? Hay là những danh từ “đại giác”
suông? “chứng đạo” suông? “Giác ngộ” suông? Kiến tánh thành Phật sao còn tham
tiền, tham bạc, ăn ngủ phi thời, giới hạnh, giới đức chẳng có, sống phạm giới,
phá giới, bẻ vụn giới, v.v…
Trong khi đạo
Phật, không chấp nhận thế giới siêu hình, không chấp nhận tụng kinh, cúng
bái, cầu nguyện, tế lễ, thì cúng bái tụng kinh, cầu khẩn và tế lễ với ai cho ai
đây? Đạo Phật là Đạo vô ngã. Vậy, ngồi thiền nhập định để kiến tánh thành Phật
là Phật gì? Vô ngã sao lại còn có Phật?
Đạo Phật là
một tôn giáo ra đời để giải quyết bốn điều khổ của kiếp người “sanh, già, bệnh,
chết”. Giáo pháp của Phật Thích Ca xây dựng trên nền tảng “Đạo đức nhân bản –
nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người”. Pháp môn của Phật Thích Ca dạy tu
tập tỉnh thức là để ngăn chặn lòng tham muốn và ngăn chặn các ác pháp, nhờ đó mới
mang lại sự an vui, thanh thản và hạnh phúc cho mình, cho người. Một giáo pháp
rất thực tế và cụ thể cho mọi người, nếu mọi người ai cũng ý thức và hiểu biết
về pháp môn này, nỗ lực thực hiện, sống đúng lời dạy của đức Phật Thích Ca, thì
xã hội loài người sẽ trở thành Thiên Đàng, Cực Lạc, có cần gì đi tìm cõi Thiên
Đàng, Cực Lạc mơ hồ, trừu tượng kia, mà chẳng bao giờ có.
Vừa rồi,
chúng tôi được đọc một cuốn sách tựa đề “Sự sống sau khi chết”. Đọc xong cuốn
sách này, nếu người nào không có tu tập theo giáo lý Nguyên Thủy của đạo Phật
và không có chứng nghiệm pháp hướng tâm, thì chắc chắn phải tin rằng có thế giới
siêu hình. Toàn bộ cuốn sách tác giả đã lượm lặt những mẩu chuyện “cận tử nghiệp”.
Tác giả này chưa bao giờ tìm hiểu Phật giáo và nếu bây giờ có tìm hiểu và
nghiên cứu Phật giáo thì ông ta cũng vẫn hiểu lầm lạc, vì một đám mây mù giáo
pháp của Đại Thừa đã che phủ và lấp kín lời dạy của đức Phật Thích Ca. Những mẩu
chuyện cận tử nghiệp của bao nhiêu người lâm sàng trên giường bệnh trong bệnh
viện, tác giả đều cho đó là trạng thái của cuộc sống sau khi chết. Tác giả đâu
biết rằng trong thân tứ đại này, khi con người còn sống có cả hai thế giới hữu
hình và vô hình, nhưng khi thân tứ đại này chết, thì cả hai thế giới ấy đều diệt
sạch.
Khi thân này
còn sống, cái gì hoạt động trong thế giới hữu hình? Và cái gì hoạt động trong
thế giới vô hình? Khi còn sống, con người hoạt động trong thế giới hữu hình bằng
“sắc thức”. Sắc thức gồm có sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức,
thân thức và ý thức; còn hoạt động trong thế giới vô hình thì chỉ bằng một “tưởng
thức”.
Bình thường hằng ngày chúng ta sống làm mọi việc, thì ý thức điều khiển hoạt động do ý căn (bộ óc và thần kinh).

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét