319-LINH HỒN TƯỞNG / 1
Thầy Thích
Thông Lạc
Hỏi: Kính thưa Thầy, theo người đời nói:
“Người ta khi chết đi, thì hồn siêu phách lạc, hồn ở cây cả bóng cao, cầu ao,
bóng mát và linh hồn người chết đi khắp đó đây”, có phải vậy không thưa Thầy?
Đáp: Trong giáo lý của đạo Phật dạy:
con người do năm duyên hợp lại thành, nên gọi là thân ngũ uẩn, khi người chết
năm uẩn này tan biến mất, thân tứ đại này trở về với cát bụi hư vô, không còn
sót một vật gì thường hằng (linh hồn hay Phật tánh).
Đức Phật đã
xác định trong kinh như vậy, thì làm sao có hồn xiêu, phách lạc, ở cây cả, bóng
cao, cầu ao, bóng mát, đi đây, đi đó khắp nơi.
Đó là một sự
mê tín trong dân gian, với trí hữu hạn của con người không thể làm sao biết thế
giới siêu hình được, nên tưởng ra như vậy. Còn các nhà tôn giáo tu hành chẳng tới
đâu, rồi cũng dựa vào sự mê tín lạc hậu của dân gian ấy, để xây dựng tôn giáo của
mình có một thế giới Thần Tiên (chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, v.v…), là một thế
giới siêu hình đầy hạnh phúc, mà cũng là ước mơ của loài người. Nhưng đó chỉ là
một thế giới ảo tưởng để mà thỏa mãn ước mơ.
Đã có thế giới
Thần, Tiên tràn đầy hạnh phúc và an lạc, thì phải có thế giới địa ngục; mà đã
có thế giới địa ngục thì phải có thế giới ma quỷ, có linh hồn người chết, có
các đảng và cô hồn vất vưởng cây cao, bóng cả, cầu ao, bóng mát. Phần nhiều người
ta nghĩ rằng những linh hồn của người chết oan không đi đầu thai được nên phải ở
cây cao, bóng mát như vậy.
Trong bài
kinh “Pháp Môn Căn Bản” (kinh số 1, Trung Bộ 1, Mùlapariyàya Sutta,
MN.1)Đức Phật đã chỉ dạy cho chúng ta biết: do trí hiểu biết của chúng
ta có hạn lượng, nên đối với các pháp không thể hiểu rõ, luôn luôn bị lầm chấp,
vì dùng tưởng xác định các pháp, nên hiểu từ cái sai này đến cái sai khác.
Đã không hiểu
rõ cái thế giới hữu hình mà mọi người đang sống, nên lầm chấp các pháp trong thế
giới này là thật có, rồi sanh ra dính mắc. Do dính mắc không bỏ được, nên tạo
biết bao nhiêu sự đau khổ cho mình cho người, trải suốt nhiều đời kiếp.
Thế giới
siêu hình là thế giới hình bóng của thế giới hữu hình. Thế giới hữu hình mà
chúng ta đang hiểu biết bằng tưởng tri, thì thế giới siêu hình cũng hiểu biết
như vậy. Do đó ta suy ra biết thế giới hữu hình và thế giới siêu hình là thế giới
tưởng (thế giới không thật có).
Sự lầm chấp
của con người, dùng tưởng để hiểu thân ngũ uẩn của mình, nên ai ai cũng cho
thân ngũ uẩn là có thật, cho trong thân ngũ uẩn này có linh hồn bất biến từ vô
thủy, cho linh hồn đó là bản ngã của ta, còn thân ngũ uẩn này là của riêng ta
(vật sở hữu của chính mình). Vì thế ai động đến thân tâm của ta, thì sẽ ăn thua
đủ, không nhịn ai hết; nếu sức yếu thế cô thì ấm ức tức giận không bao giờ
nguôi.
Cũng từ sự
hiểu biết của tưởng tri mà ta tưởng ra người chết có linh hồn không chết. Linh
hồn mất thân, không còn chỗ ở nương tựa, nên hồn xiêu phách lạc đi khắp đó đây,
hoặc đọa xuống địa ngục thọ nhiều cực hình, chịu nhiều tội khổ, chờ đến khi mãn
hạn, mới được tái sanh luân hồi, làm thân chúng sanh hoặc làm thân người.
Cũng từ bài
kinh đó (“Pháp Môn Căn Bản ”, kinh số 1, Trung Bộ 1, Mùlapariyàya
Sutta, MN.1), Đức Phật đã xác định: “Người ta tưởng tri Sanh vật
là Sanh vật… (có thật). Người ta tưởng tri chư Thiên là chư Thiên…(có thật).
Người ta tưởng tri Phạm Thiên là Phạm Thiên. Người ta tưởng tri Quang Âm Thiên
là Quang Âm Thiên…Người ta tưởng tri Biến Tịnh Thiên là Biến Tịnh Thiên…Người
ta tưởng tri Quảng Quả Thiên là Quảng Quả Thiên…Người ta tưởng tri Thắng Giả là
Thắng Giả (Abhibhù)…Người ta tưởng tri Không Vô Biên Xứ Thiên là Không Vô Biên
Xứ Thiên…Người ta tưởng tri Thức Vô Biên Xứ Thiên là Thức Vô Biên Xứ Thiên…Người
ta tưởng tri Vô Sở Hữu Xứ Thiên là Vô Sở Hữu Xứ Thiên….Người ta tưởng tri Phi
Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên…Người ta tưởng
tri Sở Tri Kiến là Sở Tri Kiến…Người ta tưởng tri Sở Văn là Sở Văn…Người ta tưởng
tri Sở Tư Niệm là Sở Tư Niệm…Người ta tưởng tri Sở Tri là Sở Tri….Người ta tưởng
tri Đồng nhất là Đồng nhất…Người ta tưởng tri Sai biệt là Sai biệt…Người ta tưởng
tri Tất cả là Tất cả…Người ta tưởng tri Niết Bàn là Niết Bàn…”.
Qua đoạn
kinh trên, chúng ta thấy rõ, con người đang sống trong thế giới tưởng, mà cứ tưởng
rằng có thật.
Vì tưởng rằng
có thật do đó người ta mới đau khổ, vì tưởng rằng Niết Bàn có thật, nên người
ta nghĩ đến tự ngã như là Niết Bàn (Phật tánh có bốn đức Niết Bàn thường, lạc,
ngã, tịnh), nên Phật dạy: “Người ấy tự nghĩ Niết Bàn là của ta – rồi
sanh ra dục hỷ Niết Bàn”, tức là ham thích cảnh giới Niết Bàn, Phật dạy
tiếp: “Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri Niết Bàn” (“Pháp
Môn Căn Bản ”, kinh số 1, Trung Bộ 1, Mùlapariyàya Sutta, MN.1),
nghĩa của đoạn kinh trên là chẳng hiểu gì về Niết Bàn cả.
Đọc bài kinh
này, chúng ta nhận xét đức Phật đã xác định: “Con người từ chấp ngã,
tâm, linh hồn, Phật tánh, bản thể vũ trụ, cho đến 33 cõi trời và cảnh giới Niết
Bàn đều do tưởng uẩn tạo ra. Từ đó con ngưòi dùng tưởng tri và ý thức để phân
biệt hiểu các pháp, chứ thật sự các pháp không có thật”.
Thế giới
siêu hình là thế giới bóng dáng của thế giới hữu hình mà con người lầm chấp có
thật. Thật sự nó không có, nó chỉ là một hình bóng của tưởng uẩn tạo ra mà
thôi.
Có người đến
hỏi Thầy Chơn Thành: “Con người từ đâu sinh ra và chết đi về đâu?”
Thầy Chơn Thành đáp: “Con người sanh ra từ dục, sống trong dục, chết trở
về dục”. Nói cách khác cho dễ hiểu hơn và đúng như lời Phật đã giảng
trong kinh: “Con người sinh ra do từ nhân quả, sống trong nhân quả
và chết đi về nhân quả”.
Bởi con người
không rõ luật nhân quả, và không biết lối thoát ra khỏi nhân quả, nên chịu mãi
trôi lăn, muôn đời muôn kiếp trong nhân quả. Người hiểu biết nhân quả, luôn giữ
gìn mỗi hành động thân, miệng, ý, làm thiện với mình, làm thiện với người, chẳng
hề làm một điều ác nào cả, để mình không khổ và người khác không khổ. Theo luật
nhân quả người làm thiện như vậy khi chết sẽ sanh nơi thiện, hưởng được phước
báo đầy đủ, sanh ra trong gia đình giàu có, muốn chi có nấy, lại được học hành
đến nơi đến chốn và được nuôi dạy trong môi trường đạo đức sống toàn thiện, tạo
thêm phước báo cho đời sau nữa. Ngược lại, kẻ không hiểu luật nhân quả, thường
không giữ gìn những hành động thân, miệng, ý thiện, nên thường làm những điều
ác, tạo khổ cho mình cho người, sống quãng đời hiện tại luôn luôn khổ đau, bất
an, bất toại nguyện, v.v… Sau khi thân hoại mạng chung (chết) sanh vào nơi bất
thiện, hưởng quả báo nghèo cùng, khổ đau, bệnh tật, tai nạn, đói khát, thiếu
cơm ăn, áo mặc, sống không nhà cửa, vất vưởng ngủ hè, ngủ chợ, không được học
hành. Sống trong môi trường thiếu đạo đức nên càng ngày càng làm nhiều điều ác
hơn, tạo nhiều nhân quả xấu, thì đời sống lại càng khổ đau hơn nhiều. Sống
trong môi trường ác nghiệt như vậy, thì lại tạo những điều cực ác hơn nữa và
như vậy, khi thân hoại mạng chung (chết) phải đọa vào những cảnh khổ hơn, làm
người bần cùng và sanh vào những loài thú vật, côn trùng, v.v…
Người đó lại
hỏi nữa: “Tại sao các thầy bói lại biết đồ vật trong nhà mình, khi mình
đến xem bói”, Thầy Chơn Thành trả lời: “Đó là do tưởng thức, chỉ có
người tu chứng mới biết rõ ràng tận nguồn gốc của nó mà thôi”.
Thế giới tưởng
không thể dùng trí hữu hạn của con người mà hiểu được, chỉ có trí vô hạn của Phật
mới thấu suốt và biết nó như thật. Ví như, mới học toán lớp một, mà đòi hiểu
toán đại học thì sao hiểu được? Muốn có trí vô hạn lượng, hiểu thấu suốt các
pháp, thì phải tu tập. Lời Phật dạy: “Thế giới siêu hình là thế giới
tưởng”, muốn biết có hay không có thì phải tu tập theo đúng con đường của
đạo Phật, thì tự mình chứng nghiệm không những thế giới siêu hình đó, mà còn
thông suốt cả không gian và thời gian tận cùng của vũ trụ.
Qua giáo lý
kinh sách Nguyên Thủy của đạo Phật, đức Phật đã xác định nhiều bài kinh rằng:“Thế
giới siêu hình chẳng có, đó chỉ là một thế giới tưởng của con người lưu xuất từ
tưởng uẩn mà thôi, nó không bao giờ có thật sự”.
Đức Phật
cũng còn xác định rằng: “Nếu thế giới siêu hình có thật, thì đạo Phật
không có mặt trên hành tinh này”. Tại sao vậy? Đạo Phật ra đời vì mục đích
giải khổ cho con người. Nếu thật sự có thế giới siêu hình, tức là các pháp trên
thế gian này không phải do duyên hợp tạo thành, mà do một đấng Vạn năng sáng tạo.
Vì thế mọi sự trừng phạt và khen thưởng đều do vị này.
Chúng ta hãy
chịu khó đọc lại một đoạn kinh Tiểu Thừa trong tập kinh Tăng Nhất A-Hàm, tập 1
trang 455 thuộc tạng kinh Việt Nam. Các Thầy Tỳ kheo thưa hỏi Phật: “Bạch
Thế Tôn! Có sắc nào thường còn không biến đổi, tồn tại mãi ở đời, mà không di động
chăng? Có thọ, tưởng, hành, thức nào hằng còn không biến đổi, tồn tại mãi ở đời
mà không di động chăng?”. Phật dạy: “Này các Thầy Tỳ
kheo ! Không có sắc nào hằng còn tồn tại mãi ở đời mà không biến đổi, lại không
có thọ, tưởng, hành, thức nào, hằng còn mãi ở đời mà không biến đổi”. “Này các
Thầy Tỳ kheo! Nếu lại có thức này (linh hồn, Phật tánh, Bản lai diện
mục, Thần thức, v.v..) hằng còn mãi ở đời mà không biến đổi, thì người
tu Phạm hạnh (tu theo đạo Phật giới, định, tuệ) chẳng
thể phân biệt được thiện ác và chẳng thể dứt hết gốc khổ”. Lúc bấy
giờ, đức Phật, lấy một ít đất để trên đầu móng tay và bảo: “Nếu chỉ
còn một chút xíu đất trên móng tay ta, không thay đổi, thường hằng, thì người
tu theo Phạm hạnh (theo Phật giáo) chẳng thể chấm dứt
các khổ. Vì thế, này các Thầy Tỳ kheo! Vì không còn chút xíu thức nào hằng còn
mãi ở đời, nên mới thực hiện được phạm hạnh, dứt được mé khổ.”
Bài kinh
trên đã xác định rõ ràng, nếu còn có một chút xíu thế giới siêu hình (linh hồn,
thần thức) thì đạo Phật không có mặt trên hành tinh này, vì không thể tu tập,
làm chủ sanh, già, bệnh, chết được; mà đã tu tập không làm chủ được sanh, già,
bệnh, chết thì mục đích của đạo Phật ra đời để làm gì? Hay ra đời để bắt chước
lục sư ngoại đạo, xây dựng thế giới siêu hình có Thần Thức, Linh Hồn, Tiểu Ngã,
Đại Ngã, Chơn Như, Phật Tánh, Bản Thể Vạn Hữu, Bản Lai Diện Mục, v.v…
Thời đại đức
Phật ra đời là thời đại dân trí còn thấp kém, con người đang sống trong mê lầm
lạc hậu, mê tín, nên tất cả các tôn giáo khác đều theo sự lạc hậu, mê tín đó
đang ở trong bối cảnh xã hội như vậy. Các tôn giáo không thể nào thoát ra khỏi
thế giới siêu hình tưởng đó. Vì các tôn giáo cũng là những con người đang nằm
trong thế giới tưởng uẩn của họ, cho nên không còn có cách nào khác hơn được, họ
phải xây dựng thế giới siêu hình vĩ đại hơn thế giới của con người đang có, để
dễ lừa đảo hơn. Thế nên, pháp môn tu tập của các giáo phái cũng không thoát ra
khỏi tưởng tuệ, thường sống trong tưởng tri. Cho nên, họ đều xây dựng thế giới
siêu hình có thần linh, có linh hồn. Có thần linh, có linh hồn thì phải có sự cứu
rỗi, có ban phước lành. Có sự cứu rỗi, có ban phước lành thì phải có gia hộ, có
trừng phạt, có giáng họa. Có gia hộ, có trừng phạt, có giáng họa, thì phải có
thưởng, có khen, v.v…
Vì thông suốt
thời gian và không gian của vũ trụ, nên đức Phật biết rất rõ các cõi đều do tưởng
tri của con người sản xuất ra, nên mạnh tay đập phá thế giới hữu hình cũng như
thế giới siêu hình, bằng một sự biết rất rõ nó không có thật thường làm đau khổ
cho loài người.
Cho nên, đức
Phật, qua những bài pháp chỉ thẳng rất thực tế và cụ thể, mà hiện giờ trong thời
đại khoa học của chúng ta cũng phải chấp nhận những bài pháp đó thật là logic
và khoa học.
Ngài chấp nhận
cõi Trời, là chấp nhận việc làm thiện của con người. Những hành động thiện sẽ
mang đến cho họ một cuộc sống an vui, thanh thản và hạnh phúc. Đó là cảnh giới
“Thiên Đàng”. Ngài chấp nhận ngay tại cuộc sống ở thế gian này là cõi “Trời” chứ
không ở cõi nào khác cả.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét