273-MUỐN NHẬP THIỀN ĐỊNH PHẢI CÓ TỨ THẦN TÚC/ 1
Kính gửi:
Bác Đức Thông. Kính thưa bác! Khi đọc xong bài: “Tìm hiểu cơ chế, tâm
sinh lý học Thiền, đến Trí tuệ”, Chánh Quang xin có đôi lời thành thật
góp ý với Bác, nhưng không biết Bác có vui lòng nghe sự góp ý thành thật này của
Chánh Quang không?
Khi đọc xong
bài luận nói trên, Chánh Quang có một cảm tưởng Bác là một bác sĩ Đông y, đang
nghiên cứu những vị thuốc thiền, mà xưa nay có nhiều vị bác sĩ Tây y, Đông y đã
phối họp thành một toa thuốc đặc trị có nhiều vị thuốc, bây giờ Bác lại thêm một
vị thuốc y học Mooc-phin nữa.
Vào câu đầu,
Bác giới thiệu nghe rất hay: “Thực ra, thiền là một diễn tiến tâm linh,
sống động, liên tục, hồn nhiên, không có kỹ thuật, không chia thành những giai
đoạn tách bạch rõ rệt và vô cầu”. Nếu một người đã từng hiểu biết và
nhập các loại thiền định thì ngay câu giới thiệu thiền của Bác, họ sẽ biết ngay
Bác là một “Học giả thiền”.
Bởi vì thiền
định là một sự bất động của thân tâm con người. Cho nên, sự bất động của thân
tâm có từng phần. Mỗi phần trong thân tâm khi Bất Động là một loại thiền định,
chứ không theo như bài luận thiền của Bác. Sự bất động trong thiền hữu sắc gồm
có:
1. Bất
động Ý thức uẩn nhập Sơ Thiền.
2. Bất
động Sắc uẩn nhập Nhị Thiền.
3. Bất
động Tưởng uẩn nhập Tam Thiền.
4. Bất
động Thọ uẩn và Hành uẩn nhập Tứ Thiền.
Muốn cho sự
bất động này nhập các định thì hành giả phải có TỨ THẦN TÚC, nếu không
có TỨ THẦN TÚC thì không bao giờ có ai Bất Động được thân ngũ uẩn. Không
bất động được thân ngũ uẩn thì không bao giờ nhập được Bốn Thánh Định.
Trên đây là
thiền định của Phật giáo (Tứ Thánh Định). Nếu muốn nhập các định này thì phải
có đủ năng lực ĐỊNH THẦN TÚC như trên đã nói. Phần này, Chánh Quang xin
giải thích sau nếu có dịp.
Đọc bài luận
thiền của Bác: “Thiền là một diễn biến tâm linh, sống động, liên tục, hồn
nhiên, không có kỹ thuật, không chia thành những giai đoạn tách bạch, rõ rệt và
vô cầu”. Như những lời luận thiền trên thì đây là thiền tưởng của Đại
thừa, Đông Độ, Yoga, v.v… “Tâm linh, sống động” tức là 18 loại
hỷ tưởng xuất hiện mà từ lâu các Tổ sư Ấn Độ, Trung Hoa và Việt Nam đã chịu ảnh
hưởng kinh sách Vệ Đà của Bà La Môn giáo mà dạy về thiền này.
Thiền của Phật
giáo không có điều thân, điều tức, điều tâm, mà chỉ có ngăn ác, diệt ác
pháp, sinh thiện, tăng trưởng thiện pháp, như Ni sư Dhammadinna
nói: “Này Hiền giả Visakha, BỐN TINH CẦN là định tư cụ”.
Ngồi kiết
già, đối với đạo Phật là một tư thế ngồi bình thường của một người tu sĩ Phật
giáo, chứ không phải ngồi kiết già là điều thân. Đối với Phật giáo, ngồi kiết
già không phải là vấn đề quan trọng, ngồi được cũng tốt, ngồi không được thì ngồi
trong tư thế khác cũng được, chứ không có bắt buộc ngồi kiết già. Trong BÁT
CHÁNH ĐẠO không có nói ngồi kiết già. Cho nên ai ngồi được kiết già cũng tốt,
ngồi không được, ngồi tư thế khác cũng không sao. Trong BÁT CHÁNH ĐẠO chỉ có
phân biệt chánh và tà. Chánh và tà là điều quan trọng nhất con đường tu tập của
Phật giáo. Chánh là thiện pháp, là không còn tham, sân, si. Còn tà là ác pháp,
là còn tham, sân, si. Chỗ này là chỗ tu tập giải thoát ngay liền, chứ không phải
chỗ điều thân, điều tức, điều tâm. Vì điều thân, điều tức, điều tâm không có giải
thoát ngay liền. Đức Phật dạy: “Đạo Ta đến để mà thấy, không có thời
gian…”
Pháp môn ĐỊNH
NIỆM HƠI THỞ, đức Phật không có dạy điều tức (hơi thở), mà chỉ dạy tác ý theo
hơi thở để an trú tâm trong hơi thở. An trú tâm trong hơi thở là để khắc phục
những tham ưu trên thân, hay nói cách khác cho dễ hiểu hơn là để đẩy lui những
bệnh khổ trong thân (cảm thọ): “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít
vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra”, hoặc là để đẩy lui tâm
tham, sân, si: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi
biết tôi thở ra”. Cho nên đạo Phật không có dạy điều hơi thở, xin
các bạn hãy lưu ý, để các bạn sẽ không tu sai lạc vào thiền ức chế tâm bằng hơi
thở như xưa nay các Tổ sư đã dạy.
Pháp THÂN
HÀNH NIỆM không phải là pháp môn điều thân, mà là pháp môn dùng thân niệm tác ý
tu tập tỉnh thức và tạo thành ý thức lực, để luôn luôn sống và bảo vệ chánh niệm,
nên thường đẩy lui các tà niệm tham, sân, si. Cho nên pháp môn Thân Hành Niệm
là pháp môn tu tập để có Tứ Thần Túc và đầy đủ mười Như Lai lực.
Pháp môn TỨ
NIỆM XỨ không phải là pháp môn điều tâm, mà là một pháp môn để hộ trì chân lí.
Cho nên Tứ Niệm Xứ là pháp môn tu tập để khắc phục mọi ưu phiền trên thân, thọ,
tâm, pháp như trong kinh dạy: “Trên thân quán thân để khắc phục tham
ưu; trên tâm quán… trên thọ quán thọ…; trên pháp quán pháp… để khắc phục
tham ưu ở đời”. Như vậy, pháp môn Tứ Niệm Xứ không phải là pháp môn
điều tâm như trên đã nói. Xin các bạn lưu ý để tránh khỏi sự tu sai lạc. Cho
nên, thiền của Phật giáo không có điều thân, điều tức (hơi thở), điều tâm.
Trong kinh
Nguyên Thủy dạy cắn chặt răng, uốn lưỡi cong để chạm lên hàm ếch là khi có những
ác pháp tấn công vào thân tâm quá mạnh, khiến cho đau đớn khôn cùng thì phải
dùng tư thế này để giữ gìn tâm bất động, để đẩy lui các ác pháp đó ra khỏi thân
tâm. Chứ không phải đó là điều thân như Đại thừa và Thiền Đông Độ dạy.
Đạo Phật
không có dùng hơi thở tập trung tâm để loại bỏ mọi tạp niệm, mà dùng hơi thở để
loại trừ tham, sân, si, và bệnh khổ: “Quán ly tham tôi biết tôi hít
vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”, hoặc khi thân bị đau bệnh
thì dùng hơi thở: “An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh
thân hành tôi biết tôi thở ra”, hoặc phá tâm si, tức là khi bị hôn
trầm, thùy miên và vô ký thì: “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi hít
vô, với tâm định tỉnh tôi biết tôi thở ra” như trên đã dạy. Hơi thở
không phải là chìa khoá vàng giúp cho hành giả luôn tĩnh giác, mà hơi thở chỉ
là lỗ châu mai để cho hành giả núp vào đó để đẩy lui các ác pháp: “Quán
ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tôi biết tôi thở ra”.
Như trên đã
nói, thiền của Phật giáo không có điều tâm, không có gom tâm, không có hóa niệm,
không có thân vong - tâm hư, không có tuyệt mạng, tuyệt thể.
Thiền của Phật
giáo, khi hành giả tu tập Tứ Niệm Xứ thì với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu
nhiễm, không phiền não, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản, thì dẫn
tâm nhập thiền định không có khó khăn, không có phí sức, không có mệt nhọc. Tại
sao đức Phật lại nói như vậy?
Khi tu tập Tứ
Niệm Xứ làm cho sung mãn thân, thọ, tâm và pháp. Khi thân, thọ, tâm và pháp
sung mãn, thì Tứ Thần Túc xuất hiện như những dụng cụ để nhập các loại thiền định.
Người tu thiền mà chưa xuất hiện những dụng cụ Thần Túc này thì không bao giờ
nhập được chánh định, nếu có nhập được cũng chỉ nhập tà định, tức là định tưởng.
Cứ dựa theo bài của Bác viết trong tài liệu này, thì tu thiền là phải điều
thân, điều tức, điều tâm. Nhưng điều thân, điều tức, điều tâm thì không đúng
cách thức tu thiền định của Phật giáo. Điều thân, điều tức, điều tâm, đó là
cách thức tu tập để nhập vào tà thiền của ngoại đạo. Cho nên, điều thân, điều tức,
điều tâm là phương pháp ức chế thân tâm để đạt chất lượng không niệm khởi.
Kính thưa
các bạn! Thiền Phật giáo chỉ có xả tâm ly dục ly ác pháp, để cho tâm không còn
tham, sân, si. Tâm không còn tham, sân, si là mục đích của đạo Phật đã đạt. Mục
đích của đạo Phật đã đạt là chỗ tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.
Cho nên, người tu sĩ Phật giáo sống rất bình thường như mọi người,
nhưng không ai làm cho họ tham, sân, si được, và không bệnh tật nào làm cho họ
dao động tâm được.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét