274-MUỐN NHẬP THIỀN ĐỊNH PHẢI CÓ TỨ THẦN TÚC/ 2
Đời sống
của họ lúc nào cũng thanh thản, an lạc và vô sự. Tu tập, họ không cần phải điều
thân, điều tức, điều tâm, họ không cần có cái trí tuệ “nhất nguyên” tuyệt
đối, mang tính “xuất thế, vô sai biệt, vô ngã”.
Phật giáo chỉ
dạy cho mọi người biết cách tu tập thiền định là thường ngăn ác diệt ác pháp,
sinh thiện tăng trưởng thiện pháp, để cuối cùng tham, sân, si không còn nữa. Có
tu tập được như vậy thì người tu sĩ Phật giáo đã chứng đạt chân lí, giải thoát
hoàn toàn, họ không còn mơ ước gì hơn nữa. Cho nên nhập thiền, nhập định họ chẳng
cần những điều này.
Khi một người
tâm đã không còn tham, sân, si, thì tâm họ rất định tĩnh, nhu nhuyễn và dễ sử dụng.
Khi tâm họ định tĩnh, nhu nhuyễn và dễ sử dụng thì họ nhập thiền định không có
khó khăn, không có mệt nhọc như lấy đồ trong túi. Cho nên nhập thiền định của đạo
Phật không quan trọng.
Khi tâm chưa
hết tham, sân, si mà điều thân, điều tức, điều tâm để nhập thiền định thì Phật
giáo không có dạy điều này. Phật giáo dạy khi chúng ta muốn tu hành thì đầu
tiên chúng ta chọn một vị Thầy tu chứng đạt chân lý, giới luật phải sống nghiêm
chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào. Khi chọn được một Thầy như vậy
thì nên thân cận thưa hỏi. Nhờ thân cận thưa hỏi, vị Thầy đó chỉ dạy cho các bạn
hiểu biết chân lí, tức là giác ngộ chân lí; khi giác ngộ chân lí xong, vị Thầy ấy
chỉ cho các bạn cách thức hộ trì chân lí, khi chân lí được hộ trì đúng cách thì
chúng ta chứng đạt được chân lí; khi chứng đạt được chân lí thì tâm các bạn đã
đoạn diệt tham, sân, si. Tham, sân, si đã đoạn diệt thì tâm các bạn định tĩnh,
nhu nhuyễn, dễ sử dụng. Lúc bấy giờ các bạn mới có đủ Tứ Thần Túc. Nhờ có Tứ Thần
Túc, các bạn mới nói đến chuyện nhập thiền, nhập định. Như vậy, sự nhập thiền định
của Phật không có liên quan đến vấn đề điều thân, điều tức, điều tâm. Phải không
các bạn? Cho nên thân tâm của họ không bị ức chế, vỏ não xám không bị ức
chế. Không bị ức chế thì không bị hưng phấn. Không bị hưng phấn thì sự
sống của họ bình thường như mọi người khác, nhưng rất phi thường vì thân tâm họ
bất động trước các ác pháp và các cảm thọ.
Như Bác viết
trong bài này: “Điều tức, do ức chế được hô hấp là đã ức chế được thần
kinh thực vật. Giây thần kinh phế vị hồn nhiên được ức chế đã làm cho sự hoạt động
của tạng phủ: phổi, dạ dày, ruột… giảm dần sự hoạt động. Việc tiêu thụ oxy khi
ấy xuống rất thấp đã kéo theo sự giảm dần toàn bộ sự hoạt động toàn thể của tạng
phủ, tim, não và hệ vận động đi sâu vào trạng thái đồng đẳng”.
Thiền định của
đạo Phật không có tu tập những điều này. Chỉ khi cần muốn nhập định nào thì ra
lệnh tác ý câu trạch pháp của thiền định đó, tức khắc thân tâm làm theo lệnh và
nhập định.
Ví dụ: Muốn
nhập Nhị Thiền thì ra lệnh: “Thân tâm phải diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền”, lúc
bấy giờ sáu căn ngưng hoạt động, liền đó thân tâm nhập vào Nhị Thiền, chứ không
có nghĩa là điều thân, điều tức, điều tâm để diệt tầm tứ rồi mới nhập Nhị Thiền.
Nhập thiền định mà nhập theo kiểu ức chế là sai, là không đúng theo thiền định
Phật giáo. Và như vậy không bao giờ nhập Nhị Thiền được.
Trong Định
Niệm Hơi Thở của Phật giáo không có dạy dùng hơi thở để nhập các định, mà Định
Niệm Hơi Thở chỉ dùng hơi thở để ly tham, sân, si và các ác pháp như trên đã
nói: “Quán ly tham tôi biết tôi hít vô, quán ly tham tối biết tôi thở
ra”. Hơi thở của đạo Phật không giống hơi thở của Bác đang luận: “Chúng
ta trở lại hơi thở trong trường hợp sợ hãi, tức giận, nhịp tim tăng nhanh, nhịp
thở gấp, người ta không thể sáng suốt, minh mẫn. Người ta chỉ có thể tỉnh táo,
sáng suốt khi thân, tâm được thăng bằng, thở điều hoà. Từ nhận thức này, từ
hàng ngàn năm nay, ở Ấn Độ cũng như ở Trung Quốc, môn Yoga, khí công dưỡng
sinh, luyện đan, tu tập trường sinh bất lão chủ yếu đều tập trung vào hơi thở.
Các phương pháp thở tùy theo truyền thống của từng nước, từng môn phái… chủ yếu
vẫn là “THỞ” tập như thế nào để làm cho hơi thở chậm lại, “QUY TỨC” (thở như
rùa, ba ba, đồi mồi có thể không thở trong 72 giờ). Sau đó là kết hợp luyện
hình, luyện ý theo ba yếu tố chủ chốt: TINH, KHÍ, THẦN, luyện TINH hóa KHÍ, KHÍ
hóa THẦN, luyện THẦN hóa HƯ, luyện HƯ hợp ĐẠO. Luyện THẦN đến chỗ hoàn HƯ, có
nghĩa là dẫn tâm đến chỗ “CHÂN KHÔNG”, hay còn gọi là TỊNH TÂM VÔ THỨC. Người
mà luyện được tới chỗ “THẦN HOÀN HƯ” thì có nhiều khả năng sống lâu và có trí
tuệ. Việc luyện linh đan đã hoàn tất, tức luyện HƯ hợp ĐẠO.”
Đoạn luận
trên đây của Bác, dùng hơi thở để dung hóa các pháp môn Phật, Lão, Yoga, Bà La
Môn, v.v… từ chỗ thiền Phật giáo để trở thành thiền luyện TINH, KHÍ, THẦN của
Tiên đạo. Đó là một hòa đồng pháp môn mà người sau kiến giải dung hóa thành lập
ra. Bây giờ Bác cũng giẫm lại lối mòn đó (Hòa Đồng Tôn Giáo theo kiểu Thông
Thiên Học).
Theo Chánh
Quang hiểu biết, thì thiền của Phật giáo không giống một thứ thiền nào của các
tôn giáo khác, và cũng không có ai có thể dung hoà được thiền của Phật giáo với
các thứ thiền khác được. Vì thiền định của Phật giáo là một pháp môn thiền độc
nhất, không có một thứ thiền nào giống được. Cho nên, thiền định của Phật giáo
không phải là một pháp môn tu tập như các pháp môn thiền của các tôn giáo
khác. Thiền của Phật giáo là một chương trình Giáo dục đào tạo con người
sống có đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ cả hai. Một
chương trình có bài vở hẳn hoi, có phần lý thuyết học tập, có phần thực hành tu
tập, để sống trở thành một thói quen đạo đức làm Người, làm Thánh rõ ràng, cụ
thể.
Bởi vậy, mục
đích của đạo Phật không luyện THẦN đến chỗ HOÀN HƯ, không dẫn tâm đến chỗ “CHÂN
KHÔNG” như Tiên đạo và Đại thừa. Tiên đạo và Đại thừa khéo tưởng tượng pháp môn
tu tập trong tưởng, sống trong tưởng. Còn riêng đạo Phật sống như thật, không
mơ mộng những điều cao siêu ảo tưởng, chỉ có một mục đích là bất động tâm trước
các ác pháp và các cảm thọ. Cho nên, muốn sống được như vậy thì phải sống biết
đúng đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình, khổ người, khổ cả hai, đó
là giải thoát, là thiền định của Phật giáo đấy các bạn ạ!
Bốn Thiền và
Tam Minh không phải là mục đích của đạo Phật, nó chỉ là một năng lực của đạo đức
nhân bản - nhân quả làm người, khi người ấy sống trọn vẹn với đạo đức thì những
năng lực này sẽ xuất hiện. Vì thế, Bốn Thiền và Tam Minh đối Phật giáo nó không
có quan trọng. Khi tâm lìa tham, sân, si, tâm định tĩnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng
thì đức Phật dạy: “Nhập Bốn Thiền và Tam Minh không có khó khăn,
không có mệt nhọc”.
Kính thưa
Bác! Chánh Quang đọc bài luận về thiền của Bác viết, Chánh Quang rất lo lắng: “Nếu
mọi người cứ hiểu thiền của Phật như bài luận của Bác thì tự nó đã dìm thiền Phật
giáo mất. Như vậy về sau còn ai biết thiền của Phật giáo nữa”.
Thiền của Phật
giáo là đạo đức của mọi người, lợi ích cho mọi người, đúng căn cơ của con người,
chứ không phải như thiền của Bác viết. Thiền của Bác là thiền của những bậc đạo
sĩ luyện TINH, KHÍ, THẦN để trở về với CHÂN KHÔNG BẢN THỂ. Những loại thiền này
chỉ dành riêng cho những bậc cao siêu, còn những người bình thường phàm phu làm
sao tu tập nổi, nếu có tu cũng trở thành điên khùng, như một số người hiện giờ
mà Chánh Quang đã chứng kiến. Cho nên, thiền này chỉ nói suông nghe chơi, chứ
không phổ cập cho loài người được, vì chẳng lợi ích thiết thực cho đời sống của
con người, và con người căn cơ thấp kém không phù hợp với những loại thiền này.
Kính thưa
Bác! Từ khi có những loại thiền này có mấy người đã chứng được nó? Có
người nào luyện TINH, KHÍ, THẦN mà sống được 1000 tuổi chưa? Kinh sách
viết về thiền này quá nhiều, biết bao nhiêu giấy mực của thế gian mà có lợi ích
gì cho ai, con người khổ cũng vẫn khổ như thường. Có đúng không thưa Bác?

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét