303-GỌI HỒN / 1
Theo đuổi
hai nhà ngoại cảm nổi tiếng đã vẽ trúng hàng trăm ngôi mộ liệt sĩ, nhưng đến lượt
mình thì không có duyên, tôi bàn với anh Tân Cương chỉ còn cách là tìm đến những
người có khả năng gọi hồn. Theo tin của anh thì cô Phan Thị Bích Hằng đã mất
năng lực đó vài năm nay rồi, anh đang giúp tôi liên hệ với một bà ở Cẩm Giang
và một bà ở Hải Phòng. Chị Tuyết Nga cũng khuyên tôi tìm kiếm theo hướng đó. Chị
cho tôi một địa chỉ điện thoại mà điều tra ra thì đó chính là địa chỉ của cô
Bích Hằng. Trong quá trình tìm mộ, tôi thường hay kể lại với bạn bè khi rảnh rỗi.
Tình cờ một hôm, anh Trần Công Bảy biết tôi có ý định gọi hồn, liền nhận giúp
tôi liên hệ với cô Bích Hằng. Cô nhận giúp tôi vào chiều ngày 9.8.1999.
Ngày
9.8.1999 tiếp xúc với linh hồn.
Qua cô
Bích Hằng, tôi hy vọng có được thông tin về phần mộ em tôi, nhưng điều còn quan
trọng hơn là: Kiểm nghiệm xem có thật linh hồn còn tồn tại sau khi người ta chết
không. Tôi lục tìm trong trí nhớ những vụ việc mà chỉ tôi và em tôi biết, để kiểm
tra xem có thật là linh hồn em tôi đang nói với tôi không. Dự buổi gọi hồn
có chị tôi và em gái tôi, nhưng tôi dặn không ai được nói, đề phòng hớ hênh, để
lộ thông tin cho “thầy bói nói dựa”.
Bích Hằng
là một cô gái nhỏ nhắn, xinh đẹp và thùy mị, năm nay 27 tuổi tốt nghiệp đại học
kinh tế quốc dân, hiện đang làm kế toán cho một công ty xây dựng của quân đội,
đồng thời vẫn theo học lớp đào tạo thạc sĩ quản lý kinh doanh do trường đại học
Oxtord (Anh) tổ chức tại Hà Nội.
Tôi hỏi
cháu có khả năng đặc biệt từ bao giờ. Cô nói: từ khi còn đang học phổ
thông, sau khi bị chó dại cắn, lên cơn nhưng không chết. Cô bạn
cháu cùng bị chó dại cắn thì chết. Một hôm, giỗ bà nội, cháu nhìn lên
bàn thờ thấy bà ngồi cùng hai đứa bé. Cháu hỏi ông nội: hai cậu bé ngồi cùng bà
nội kia là ai? Sau một hồi kinh ngạc, ông nội giải thích: người con thứ nhất của
bà được hơn một tuổi thì chết, người con thứ ba sau bố cháu được hơn hai tuổi
cũng chết. Từ đó trở đi, khi qua nghĩa địa, cháu nhìn thấy vô số là
vong hồn người nằm, người đứng, khi tỏ khi mờ giống như nhìn vào cái màn hình bị
nhiễu. Mới đầu thì rất sợ, sau cũng quen dần đi.
Tôi lại hỏi:
“Có tin nói là khả năng đặc biệt của cháu suy giảm rồi, có đúng không?”. Cô trả
lời: “Khi cháu có bầu và sinh con, cháu phải lấy cớ đó để từ chối. Bây giờ con
cháu đã 14 tháng, cháu mới nhận giúp bác”.
Khác với
anh Nhã, cháu Hằng yêu cầu đặt lên một cốc nước, một cốc gạo để cắm hương, một
ngọn nến và một bức ảnh của cô Khang theo cháu nói là để nhận diện vong hồn được
triệu về có đúng là cô không. Cháu mang theo một xấp giấy tiền đặt lên bàn.
Thắp
hương và đốt nến xong, cháu khấn mời cô Khang bằng một giọng nhỏ nhẹ, tưởng chừng
như cô đang ngồi trước mặt.
Rồi quay
sang nói với tôi: Ở căn phòng này, bác không thờ bao giờ, có thể là khó về.
Nghe Hằng
nói, tôi đâm lo. Chẳng những không thờ bao giờ mà 10 năm nay tôi không ở nhà
này, giao cho con. Nhìn quanh cửa kính đóng kín mít (dễ mở máy điều hòa nhiệt độ)
thì mùi hương bay đi đâu mà cô nhận biết được? Cháu Hằng có lời mời nhưng cô ở
đâu mà nghe thấy được? Nếu nghe thấy thì tìm sao nổi đến địa chỉ này giữa cái
thành phố ồn ào bát ngát? Nếu tìm thấy địa chỉ thì lách qua kẽ hở nào mà vào được?
Một phút
chờ đợi căng thẳng trôi qua. Cháu Hằng vẫn dán mắt vào tấm ảnh. Rồi hai phút, rồi
ba phút. Bỗng cháu Hằng hớn hở: Cháu chào cô ạ! Cháu là Phan Thị Bích Hằng. Bác
Trần Phương nhờ cháu mời cô về để hỏi cô hài cốt của cô hiện nay ở đâu?
Rồi Hằng
vội quay sang tôi, hạ giọng nói: Có một người đàn ông, thanh niên đi cùng với
cô. Tôi ngồi im, cố đoán xem người đó là ai.
Cháu Hằng
vẫn chăm chú lắng nghe, thỉnh thoảng lại vâng à, à, thế ạ! à, cái gì ngân, cô
Ngân hay là cái gì?
Qua phiên
dịch của cháu Hằng, cô Khang nói: người thanh niên đi cùng em chính là anh Sơn
đấy. Anh vẫn thường xuyên đến gặp em (Anh Sơn thật ư? Người anh, người bạn và
người đồng chí thân thiết nhất của tôi! Tôi muốn reo lên, gọi thật to tên anh.
Nhưng tôi cố nén mình lại, chờ xem sao). Anh không có duyên rồi, anh đi tìm em,
đối mặt với em rồi mà không đến được với em. Từ hôm anh đến mấy chị với em
trong đội Hoàng Ngân của em cứ bảo sao lâu quá không thấy anh Phương trở lại.
Chỗ em nằm chỉ cách chỗ anh đào 3 bước chân xoải dài ra phía bờ ao (tôi hỏi: Vậy
em nằm trên vườn hay dưới ao? Đến bờ ao cũng còn ba bước chân nữa. Phía trên em
chừng 2 mét là chị Nguyễn Thị Bê, đội viên đội nữ du kích Hoàng Ngân, quê ở
ngay làng La Tiến. Cách chỗ em nằm cũng chừng hai mét về phía Đông là một nam,
bị bắt từ Hải Dương về, em không biết tên. Ba cái mộ gần như nằm trên một đường
thẳng. Hai người kia cùng bị giết một ngày với em. Chúng cột tay ba người lại với
nhau rồi vất xuống sông vào nửa đêm. Dân phòng ta có đi tìm nhưng không thấy.
Mãi mấy ngày sau, xác mới nổi lên. Dân vớt được thực ra, dân cũng là dân phòng
giả dạng thôi. Đưa về đây chôn, vì thế mà ba cái mộ sát gần nhau. Xa hơn, còn mấy
người nữa. Chỗ này còn có cả thẩy bảy người cơ. Mấy người nổi lên trước thì dân
còn cho được manh chiếu. Còn nổi lên sau thì đến manh chiếu cũng không có, nói
gì đến quan tài! (vì cháu Hằng hỏi: Chôn cô có quan tài không?)
Rồi cô chỉ
dẫn tỉ mỉ chỗ cô nằm, với các đặc điểm cây cỏ chung quanh, bắt đầu từ cây nhãn ở
góc vườn mà tôi nhận ra ngay. Đó là cây nhãn giáp với nhà bà Nhờ, tôi đã ngồi ở
đó để theo dõi việc đào mộ.
Tôi hỏi:
Em có biết chỗ em nằm thuộc về đất của ai không? Của bà nào không?
Cô đáp:
Em cũng không biết nữa.
Cháu Hằng
xem ảnh bác Sơn, bảo đúng, nhưng trông bác già hơn và gầy hơn trong ảnh. Thực vậy,
bức ảnh chụp năm 1948, trong tư thế rất bảnh trai, khi anh tôi đang công tác ở
Sơn Tây.
Anh nói:
Chú đi tìm em Khang mà chẳng nói với anh một câu. (Tôi xin lỗi anh. Nhưng trong
bụng vẫn nghĩ: Oan em quá, em đâu có biết anh còn tồn tại?). Lần sau, chú báo
trước cho anh, anh sẽ dẫn đường cho chú đến tận nơi. Người trên này có tâm đấy,
nhưng mò kim đáy biển, biết chỗ nào mà đào? Ai khoanh cho chú chỗ ấy là họ hiểu
biết đấy. Cũng may mà khúc sông ấy hơi cong lại, xác em mình dạt vào, nếu không
thì đã trôi tuột đi rồi.
Mẹ thì
khóc thương em nhiều lắm, cứ muốn em về bên mẹ để mẹ ôm ấp. Còn anh thì anh
khuyên em về nghĩa trang liệt sĩ. Vì đấy là vinh dự của em mình, của gia đình
mình cơ mà. Tổ quốc ghi công mình, đời đời người ta thắp hương cho mình, chứ
đâu chỉ con cháu trong gia đình mình. Vả lại đời anh chị em mình đã vậy, chứ đến
đời thằng An thì nó còn biết gì! (Tôi giật mình, vì thằng An chính là con tôi,
10 năm sau khi hy sinh, nó mới ra đời).
Hôm nào
khi đưa em Khang về nghĩa trang liệt sĩ, chú cũng cần nói lại với bố mẹ như thế.
Hôm chú
đi tìm mộ em Khang, anh cũng có theo dõi. Chú đào xuyên đến cả lớp đất nguyên
thủy. Em mình đâu có nằm sâu đến thế. Chỉ hơn một mét là đến lớp cát đen rồi.
Em mình cũng chỉ nằm ở tầm ấy thôi. Lần này chú để ý sẽ thấy một thanh củi mục.
Thực ra, đấy là cái cán thuổng mà người đào đất đánh gãy vất lại đó, vô tình
như đánh dấu cho mình.
Bỗng cháu
Hằng nói như ra lệnh: Pha chén nước chè!
Tôi hỏi
nhỏ cháu sao lại làm như vậy?
Hằng nói
Bác Sơn bảo: Nói chuyện khan thế này thôi à?
Cháu Hùng
đứng dậy đi ra ngoài, rồi lại vào ngồi cạnh tôi. Một lát cháu đứng dậy đi ra cửa,
đỡ lấy hai chén trà nóng đặt lên bàn.
Cháu Hằng
quay sang tôi nói: Bác Sơn bảo: Ơ kìa cái thằng An! Nó vào mà không chào bác.
Cháu Hằng
và tôi đều ngồi quay lưng ra cửa, không để ý ai đã hé cửa đưa chén trà cho
Hùng. Sau mới biết là cháu An, nó vừa đi làm về.
Bác Sơn
nói tiếp: Các cháu học sinh nó không biết đấy thôi. Người âm không giúp được gì
nhiều, nhưng cũng có lúc đỡ được. Có lần, chỉ cần anh đến chậm một tý thì cháu
Trang đã gặp nguy hiểm rồi (Tôi kinh ngạc khi anh nhắc đến tên cháu Trang con của
An).
Tôi hỏi:
Anh bảo sẽ dẫn đường cho em, làm cách nào mà em nhận biết được?
Anh nói:
Anh không thể nắm tay chú, nhưng anh sẽ tìm con vật nào đấy: con ong, con bướm
chẳng hạn, sai khiến nó để nó dẫn đường cho chú. Làm việc này đối với người âm
là khó đấy, nhưng anh sẽ cố. Khi thấy con vật chú gọi nó lại, rồi đi theo nó đến
chỗ nó đậu.
Một lúc
lâu cháu Hằng không dịch, mà trao đổi gì đó. Tôi chỉ nghe cháu nói (cháu còn
con nhỏ. Vâng, cháu sẽ cố. Sau này hỏi lại, Hằng nói: cô Khang cứ thuyết phục
cháu đi đến mộ để cô nói với cháu, chỉ cho cháu đúng chỗ cô nằm, kẻo lại đào chệch
như lần trước. Bác Sơn cũng dỗ cháu. Bác bảo: Chú Phương chú ấy quen tác phong
chỉ huy, ra lệnh. Còn bác thì bác nhờ cháu. Bác Sơn bác ấy vui tính lắm. Hễ bác
nói là thấy không khí vui vẻ, phấn khởi ngay. Còn cô Khang thì có vẻ hơi buồn.
Cháu Hằng
lại hỏi: Bác Phương muốn biết chính xác ngày giỗ của cô. Bác ấy chỉ biết vào
khoảng 20 tháng sáu dương lịch.
Rồi Hằng
nói tiếp: Cô cười bảo: Đối với anh Phương thì ngày nào mà giỗ chẳng được. Em bị
chúng nó bắt, có được bóc lịch đâu mà biết ngày. Chỉ nhớ một hôm, khoảng 18 hay
19 gì đó, thằng quan tư bảo: “Bọn mày cứng đầu! Đến ngày 24 mà không khai thì bắn
bỏ”, anh cứ lấy ngày ấy là được. Còn ngày âm lịch em không biết là ngày nào.
Anh Sơn bổ
sung: Cứ qua ngày giết sâu bọ là em Khang lại bảo anh: Sắp đến ngày giỗ em rồi
đấy.
(Sau này
tôi tra lịch thì biết: ngày 24.6.1950 là ngày mùng mười tháng năm âm lịch).
Rồi anh
nói tiếp: Hôm nào đi tìm mộ em Khang, các cô kiếm lấy ít hoa quả, thắp hương mời
chị em. Người ta chết cùng nhau, mình chỉ hì hục đào tìm em mình thì người ta
cũng tủi, phía trên mộ cô Khang là mộ một chị liên lạc, cấp dưỡng cho đội du
kích, người địa phương (cô Khang nhắc: chị Nguyễn Thị Bê) nên báo cho gia đình
chị ấy biết mà đến tìm. Chú Phương kiếm cho anh mấy bao (cháu Hằng nói:
bao gì ạ... à vâng), bao thuốc Cáp tăng để anh mời anh em. Bây giờ anh
cũng chỉ huy cả trung đoàn đấy.
Bỗng cháu
Hằng nói như ra lệnh: Đốt tiền đi! Sắp đi rồi đấy.
Tôi hỏi
nhỏ cháu: Sao lại làm vậy?
Cháu nói:
Bác Sơn bảo.
Chúng tôi
vội hỏi đôi điều về “đời sống” của anh tôi và em tôi. Cô Khang nói: Có lần em về
thăm chị Nghĩa, chỉ đứng ngoài mà không vào được (chị Nghĩa là chị lớn nhất nhà
của chúng tôi).
Anh Sơn
nói: Em bị chết trôi sông, đã có ai bắc cầu đâu mà hễ nhớ chị nhớ em thì chỗ
nào cũng đòi vào. Bận sau đi với anh. Bây giờ công việc ở đây đã xong, đi với
anh đến nhà Quỳnh chơi (Quỳnh là em út của chúng tôi. Tuy là út, nhưng cũng đã
thành một “ông lão ngoại 60 rồi”). Chỉ riêng cách xưng hô đó cũng chỉ nói lên vị
thế và tình cảm của người anh cả đối với thằng em út.
Nói rồi,
biến mất. Cuộn băng ghi âm 90 phút cũng vừa hết.
Sau đó
tôi nghe lại băng ghi âm nhiều lần. Quả thật lại quá nhiều điều bí ẩn do chính
anh tôi nói ra mà tôi không kịp hỏi lại. Nhưng, qua những tên người trong gia
đình được nhắc đến một cách ngẫu nhiên, qua cách xưng hô, sự hiểu biết về tính
cách từng người còn sống, cách xử sự và tâm tư tình cảm của người nói, tôi nhận
ra đúng là anh tôi và em tôi. Người khác, dù biết rõ gia đình tôi đến mấy, cũng
không thể sáng tác ra một kịch bản như thế, huống hồ là cháu Hằng, một người mà
tôi vừa mới gặp lần đầu. Cháu chỉ đơn thuần đóng vai người phiên dịch, chăm chú
lắng nghe, hỏi lại cho đúng rồi nói lại. Cháu hỏi han, vâng dạ, trao đổi với
người chết cứ như nói chuyện với người sống đang ngồi trước mặt, hoàn toàn
không phải là một cô đồng nửa tỉnh nửa mê.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét