Thứ Năm, 2 tháng 3, 2023

227-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ.

 

227-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ.

Kinh sách của Tu viện Chơn Như chỉ kính biếu không bán . Phật tử cần kinh sách của Tu viện Chơn Như liên hệ :

Tu viện Chơn Như (Cổng số 2) Số 4 đường Chùa Am, khu phố Gia Lâm, phường Gia Lộc, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, Việt Nam.

Email: chonnhu2@gmail.com

Ban kinh sách Tu viện Chơn Như:

Điện thoại: 0276.3892.911

(07h-10h, 14h-17h hàng ngày),

DTDĐ : 0965.795.589.

***

01-ĐƯỜNG VỀ 01XỨ PHẬT

https://thanhson22.blogspot.com/

02-TU TẬP TỨ CHÁNH CẦN, TỨ NIỆM XỨ

https://thanhthien22.blogspot.com/

03- TẠO DUYÊN GIÁO HOÁ CHÚNG SINH

https://thanhhai22.blogspot.com/

04-SỐNG MƯỜI ĐIỀU LÀNH

https://tricangsport.blogspot.com/

05-NGƯỜI CƯ SĨ VÌ CHÁNH PHẬT PHÁP

https://tuanboysport.blogspot.com/

06-THIỆN PHÁP CỦA ĐẠO PHẬT LÀ KHÔNG THAM SÂN SI

https://khamphahoatdongcuatuong.blogspot.com/

07-PHÁP HÀNH GIỚI HÀNH 40 BĂNG

https://vietboy23.blogspot.com/

08-BẬC THẦY BA MINH DẠY LUYỆN TĨNH GIÁC

https://nghieptutruong.blogspot.com/

09-TU SĨ THƯA HỎI CHÁNH PHÁP

https://thuahoichanhphap.blogspot.com/

10-TÌM HIỂU CHÁNH PHÁP

https://tuanboya-z.blogspot.com/

11-TU TẬP XẢ TÂM

https://tuviencn.blogspot.com/

12-ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN - NHÂN QUẢ

https://daoducnhanban.blogspot.com/

13-THẾ GIỚI TƯỞNG

https://khamphabian24.blogspot.com/

14-NHÂN QUẢ LUÂN HỒI, NGHIỆP TÁI SANH.

https://nhanbannhanqua24.blogspot.com/

15-LỚP NGŨ GIỚI NÂNG CAO

https://ythucluc.blogspot.com/

16-TU TẬP TÂM BẤT ĐỘNG

https://tutaptambatdong.blogspot.com/

17-TÁC Ý ĐUỔI BỆNH

https://kettap5.blogspot.com/

18-ĐỨC PHẬT ĐÃ XÁC ĐỊNH PHÁP MÔN TU TẬP GIÁC NGỘ

https://kettapphapbao23.blogspot.com/

19-NGƯỜI DỰNG LẠI CHÁNH PHẬT PHÁP

https://huyhoang22.blogspot.com/

20-GIÁO ÁN ĐƯỜNG LỐI TU TẬP ĐẠO PHẬT

https://thonglac.blogspot.com/

21-TIẾT LỘ SỰ THẬT ĐỘNG TRỜI

https://thanhhuy23.blogspot.com/

22-KẾT TẬP PHÁP BẢO CỦA ĐỨC TRƯỞNG LÃO THÍCH THÔNG LẠC.

PHẦN 1: SỐ THỨ TỰ TỪ 01- ĐẾN SỐ 515.

https://tricang19.blogspot.com/

PHẦN 2: SỐ THỨ TỰ TỪ 01- ĐẾN SỐ 510.

https://tuongthuc.blogspot.com/

PHẦN 3: SỐ THỨ TỰ TỪ 01- ĐẾN SỐ 500.

https://phapbaovn.blogspot.com/

PHẦN 4: SỐ THỨ TỰ TỪ 01- ĐẾN SỐ 528.

https://tambatdongvn.blogspot.com/ 

PHẦN 5: SỐ THỨ TỰ TỪ 01- ĐẾN SỐ 510

https://kettapphapbao5.blogspot.com/ 

PHẦN 6: SỐ THỨ TỰ TỪ 01- ĐẾN SỐ 506

https://kettap6.blogspot.com/

PHẦN 7: SỐ THỨ TỰ TỪ 01- ĐẾN SỐ 546

https://kettap7.blogspot.com/

PHẦN 8: SỐ THỨ TỰ TỪ 01- ĐẾN SỐ 507.

https://kettap8.blogspot.com/

PHẦN 9: SỐ THỨ TỰ TỪ 01- ĐẾN SỐ 500.

https://kettap9.blogspot.com/

 

https://tuchanhcan.blogspot.com/


326-LINH HỒN TỒN TẠI Ở DẠNG NÀO VÀ LINH HỒN SẺ ĐI ĐÂU SAU KHI CHẾT ? .

 

326-LINH HỒN TỒN TẠI Ở DẠNG NÀO VÀ LINH HỒN SẺ ĐI ĐÂU SAU KHI CHẾT ? .

Chúng ta hãy tiếp tục theo chân những nhà bác sĩ khoa học này để tìm xem ho truy tìm linh hồn: “Những giả thiết trên đã đặt ra một sự nghi ngờ đối với kiến thức mà chúng ta đã biết và thừa nhận từ lâu: ý thức là sản phẩm của não bộ” . Đúng vậy ý thức là sản phẩm của não bộ, ngoài não bột đi tìm ý thức không bao giờ có. Cho nên người chết thì ý thức bị diệt mất, như vậy lời xác định trên là đúng không sai.

 Chúng ta hãy nghe tiếp các nhà khoa học đã nghiên cứu trên lâm sàng nhiều bệnh nhân và đi đến kết luận: “Điều đó giờ đây có thể không còn chính xác nữa bởi vì nếu như vậy, ý thức sẽ không thể tồn tại nếu não bộ ngừng hoạt động. Nhưng các thí nghiệm ở trên thì đều chứng minh cho điều ngược lại” . Nhiều lần nghiên cứu, khi não bộ ngưng hoạt động mà lại còn có cái biết nên các nhà khoa học cho đó là linh hồn. Do không hiểu trong thân người có ba cái biết nên các nhà khoa học vội kết luận cho cái biết ngoài ý thức là linh hồn, điều khẳng định thật là quá sai.

Do những điều này chúng tôi biết rằng sự hiểu hiểu biết của con người có hạn không thể hiểu biết con người có linh hồn hay không?

 Còn hai nhà học giả ở trường đại học Oxford la Stuart Hameroff và Roger Penrose lại giải thích sự tồn tại của linh hồn bằng quá trình lượng tử: “Theo hai ông, não bộ con người được chia ra làm hàng tỉ ô siêu nhỏ các ô này liên kết với nhau thông qua một quá trình di chuyển của các lượng tử . khi cơ thể một người ngừng hoạt động, máu sẽ không được chuyển đến các ô này, và chúng cũng ngường hoạt động. nhưng sự duy chuyển của các lượng tử thì không mất đi. Chúng sẽ thoát ra bên ngoài não bộ và ghi nhận những gì tồn tại ở không gian xung quanh. nếu người đó tỉnh lại các lượng tử sẽ quay trở lại não và hoạt động với chức năng thông thường của chúng. những gì chúng ghi lại được khi thoát ra bên ngoài cũng được não bộ tiếp nhận và đó là lý do tại sao một người hấp hối nhưng sau đó được cứu sống lại có thể biết được những sự kiện mà anh ta không hề tận mắt chứng kiến hoặt được nghe kể lại .

 Vậy nếu người đó không tỉnh lại được nữa thì các chuỗi lượng từ đó sẽ di chuyển đi đâu ? tiếp tục mở rộng giả thuyết của Hameroff và penrose, bác sĩ Ian Stevenson đã nghiên cứu về khả năng các chuổi lượng từ đó sẽ được tiếp nhận trong bộ não của trẻ sơ sinh, hay nói cach khác đó chính là sự tái sinh sau khi Ian Stevenson mất, con trai ông là tucker tiếp tục theo đuổi giả thuyết này. Tucker tiếng hành phỏng vấn rất nhiều trẻ em, trong số đó ông đã tập hợp được 1400 em có khả năng biết được những sự kiện xảy ra trước khi chúng sinh. thậm chí một vài em còn có thể kể rất rõ những sự kiện trong cả các giai đoạn phát triển rất sớm của lịch sử loài người.

 thực tế cho đến nay, dù có tập hợp được tất cả các công trình nghiên cứu khoa học về vấn đề này thì chúng ta cũng không thể nào biết được chính xác liệu có sự tồn tại của linh hồn hay không, và nếu có tồn tại thì chúng sẽ tồn tại ở dạng nào. Có lẽ khoa học không phải lúc nào cũng là giải pháp tối ưu cho tất cả mọi vấn đề”.

 Cuối cùng các nhà khoa học không thể chứng minh được linh hồn có hay không, chỉ nêu lên những giả thuyết , không thể xác định được. Do đó các vị Lạt ma Tây Tạng chỉ kết luận một cách thiếu khoa học:“Như lời của vị lạt ma mà cha tiso gặp tai kham đã nói: “đó không phải là thứ dành cho đôi mắt, mà là của trái tim. đối với chúng ta, có lẽ sự nhìn nhận bằng đôi mắt và cả sự cảm nhận từ trái tim sẽ cho câu trả lời chính xác nhất”.

 Một đất nước mà con người ở đó tin vào những sự huyền bí, vì thế các tôn giáo lợi dụng lòng tin mù quáng đó mà vẽ ra bao điều mê tín để lừa đảo họ, nhất là các vị Lạt ma Tậy Tạng cố gắng tu luyện thần thông để thể hiện những sự huyền bí “CẦU VÒNG” lừa gạt mọi người, khiến cả thế giới xôn xao, mọi người cho đó là “LINH HỒN”. Tiếng nói của chúng ta không đủ lòng tin của mọi người. Vậy chúng ta hãy để câu trả lời đó cho đức Phật. Chính lời nói của đức Phật không ai dám phủ nhận: “Ba mười ba cõi trời là tưởng tri chứ không phải liễu tri”. Lời phủ nhận thế giới siêu hình của đức Phật quá rõ ràng. Vậy chúng ta còn đi tìm linh hồn để làm gì cho phí thời gian và công sức. Như trên đã nói cái gì không có mà đi tìm cho có thì làm sao có được. Phải không thưa quý vị?


325-BÀI NÓI VỀ CÓ HAY KHÔNG CÓ THẾ GIỚI SIÊU HÌNH


 325-BÀI NÓI VỀ CÓ HAY KHÔNG CÓ THẾ GIỚI SIÊU HÌNH

Bài nói về có hay không thế giới siêu hình, quá hay Đức Phật đã xác nhận không có thế giới siêu hình, chỉ có luật nhân quả đó là khoa học. Người nào còn mê tín dị đoan mới tin ở siêu hình. . .Khi khoa học chưa đạt tới thì đó là ma quỷ, nhưng khi khoa học giải thích VÀ CHỨNG MINH được thì đó là KHOA HỌC. . .

 Đức Phật đã xác nhận không có thế giới siêu hình, chỉ có luật nhân quả đó là khoa học. Người nào còn mê tín dị đoan mới tin ở siêu hình. . .Khi khoa học chưa đạt tới thì đó là ma quỷ, nhưng khi khoa học giải thích VÀ CHỨNG MINH được thì đó là KHOA HỌC. . .

 Mục đích của Luật " Nhân qủa " là thực hiện sự Công bằng và tính Bác Ái trên cỏi đời tà ma này.

 Do đó có luật Nhân qủa thì không có thế giới siêu hình.Nếu con người tin rằng có thế giới siêu hình thì loài người sẽ triền miên trong " khổ nạn ".

 Luật nhân quả là khoa học đức Phật đã thấy trước từ 500 năm trước Tây lịch, đến đời bác học Lavoisier mới có định luật bảo toàn năng lượng trong hóa học cổ điển ở thế kỷ thứ 18, đó là luật nhân quả, chính xác và không nhầm lẫn giống như ta gọi từ một điện thoại cell phone (Mà trên thế giới hiện nay đã có hàng tỷ cái, truyền qua làn sóng microwaves) đó là NHÂN, người nghe có số riêng, NHẬN ĐƯỢC không nhầm lẫn đó là QUẢ. Quả báo, có thể thấy nhản tiền hay có thể thấy ở kiếp sau, làn sóng truyền đi mà hiện nay khoa học chưa biết , chưa chứng minh được như là GIÁC QUAN THỨ 6-THẦN GIAO CÁCH CẢM là khoa học và có thật nhưng khoa học ở thời đại chúng ta chưa đạt đến để hiểu và chứng minh được.

 Đến đời Einstien thuyết về năng lượng nguyên tử ra đời: VẬT CHẤT CÓ THỂ BỊ PHÁ HỦY , NHƯNG KHI BỊ HỦY NÓ SINH RA MỘT NĂNG LƯỢNG KHỦNG KHIẾP ĐÓ LÀ NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ.

 Như vậy muốn thoát được kiếp sanh tử luân hồi, chúng ta phải tu tập như thế nào để đủ năng lượng, ta mới nhập được Niết Bàn, và vĩnh viễn không trở lại kiếp luân hồi. Thí dụ đơn giản là Triều Tiên bắn hỏa tiển vào không gian nhưng không đủ năng lượng không thoát khỏi sức hút trái đất thì phải rơi xuống. Những người tu tập không đủ để giải thoát thì sau khi chết CÁI TÂM HAY LÀ THẦN THỨC (không phải là linh hồn) sẽ không đủ lực để đi về Niết Bàn mà sẽ rơi trở lại kiếp luân hồi).


324-LÀM LỄ QUY Y CHO NGƯỜI CHẾT

 

324-LÀM LỄ QUY Y CHO NGƯỜI CHẾT

Câu hỏi của phật tử Luân

Hỏi:Kính thưa Thầy! Trong kinh Thập Nhị Nhân Duyên, Đức Phật đã xác định rõ ràng không có thế giới siêu hình, tức là không có linh hồn, thần thức,… sau khi chết. Vậy mà tại sao chúng con thấy quý Thầy, quý Cô và quý cư sĩ Phật giáo lại dựa đâu mà cho rằng có thế giới siêu hình? Bằng chứng quý Thầy, quý Cô và quý cư sĩ đứng ra bày vẽ tổ chức lo toan đám ma, cúng vong, tiễn linh, chẩn tế cô hồn giải oan bạt độ, thậm chí còn có rất nhiều quý Thầy ngang nhiên ngồi trên pháp tòa để thuyết pháp giảng đạo làm lễ quy y Tam Bảo và thọ ngũ giới cho những vong linh. Những việc làm của quý Thầy, quý Cô và quý cư sĩ đã đi ngược lại lời dạy chân thật của đức Phật và làm lệch lạc đường đi chân chánh của đạo Phật, khiến cho mọi người có hiểu biết sẽ nghi ngờ Phật giáo. Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con được rõ và khiến cho mọi người không còn nghi ngờ Phật giáo nữa.

Đáp: Người ta không rõ mục đích quy y Tam Bảo và thọ ngũ giới là gì? Cho nên, mới dám làm những điều mê tín lừa đảo con cháu người đã chết. Quy y Tam Bảo và thọ ngũ giới cho người đã chết là để lấy lòng Phật tử trong khi người Phật tử đang đau khổ vì mất mát những người thân thương, họ không còn sáng suốt nhận định, nên hễ quý Thầy bày vẽ làm điều gì thì cứ làm ngay liền để mãn nguyện lòng thương yêu của mình đối với những người thân.

Mục đích quy y Tam Bảo và thọ ngũ giới là để sống và thực hiện một đời sống đạo đức làm người không làm khổ mình, khổ người, sống trong thiện pháp, sống biết tha thứ và thương yêu mọi người, mọi loài, chứ không phải quy y Tam Bảo là để được làm đệ tử của Phật, để ở cõi Diêm Đình vua Diêm Vương nể mặt, quỷ sứ, ngục tốt Ngưu Đầu, Mã Diện không dám hành hạ. Hiểu như vậy là mê tín là sai không đúng chánh tri kiến của đạo Phật. Còn nếu bảo rằng quy y Tam Bảo là để gieo duyên với Phật pháp thì lại còn sai hơn nữa, khi cha mẹ còn sống không bằng lòng thọ Tam Quy Ngũ Giới đến khi chết con cháu nhờ Sư, Thầy làm lễ Quy Y Tam Bảo thì vấn đề này không phải tự tâm nguyện của ông bà mà là một sự ép buộc của con cháu, như vậy thử hỏi làm sao có sự gieo duyên cho được, khi mà tâm không thành, ý không muốn.

Các Sư Thầy ngang nhiên ngồi lên pháp tòa thuyết pháp giảng đạo hoặc làm lễ quy y Tam Bảo cho những vong linh này là một việc làm mê tín, vô minh không thông hiểu đạo Phật, làm một điều phi Phật giáo, vì Phật giáo là một tôn giáo tự lực cánh sinh, chứ không nhờ vào tha lực nào cả mà phải tự mình khi còn sống có một sự thành tâm ước muốn để trở thành một con người có đạo đức làm người, không làm khổ mình, khổ người, để trở thành một con người sống toàn thiện và để trở thành một con người sống với một tâm hồn thanh thản, an lạc, bất động trước các pháp. Và có sự ước muốn như vậy thì quy y Tam Bảo và thọ ngũ giới mới có giá trị và ý nghĩa đúng nghĩa chân chánh của đạo Phật. Còn ngược lại là không có ý nghĩa tự lực, trên con đường cầu đạo giải thoát thì không có một người nào đi thay thế cho ai được mà phải chính nơi người đó, vì thế quy y cho người đã chết là một việc làm sai, gây mê tín, dị đoan, lạc hậu trong đạo Phật, đó là một việc làm tội lỗi.

Đạo Phật không chấp nhận sự thường hằng của linh hồn, thế mà Sư, Thầy lên pháp tòa thuyết pháp, quy y Tam Bảo và truyền ngũ giới cho vong linh thì đó là một việc làm của ngoại đạo lừa đảo lòng hiếu hạnh và tình thương yêu của tín đồ Phật giáo đối với người quá cố. Việc làm này chẳng có ích lợi gì cho người chết mà còn khiến cho tín đồ hao tiền tốn bạc một cách si mê.

Khi cha mẹ hay những người thân thương qua đời, lòng thương yêu của chúng ta đối với những người này, chỉ có một cách duy nhất là làm ích lợi cho người chết, cũng như giúp cho họ gieo duyên với Phật pháp thì chỉ có việc ấn tống kinh sách dạy về đạo đức làm người không làm khổ mình, khổ người. Nhờ có kinh sách này mà người sống có lợi ích rất lớn thì người chết cũng có lợi ích rất lớn. Tại sao vậy?

Tại vì người chết nghiệp lực sẽ tiếp tục đi tái sanh luân hồi ngay liền sau khi chết và đã trở thành một người mới, có nghĩa là chết đây sanh kia cũng giống như cây đuốc, cây đuốc này vừa tắt thì cây đuốc kia cháy sáng ngay liền để giữ ánh sáng liên tục không bị gián đoạn. Luật nhân quả cũng vậy, thân này mất thì có thân khác ngay liền để giữ đạo luật nhân quả không bị gián đoạn.

Vì thế, kinh sách đạo đức làm người không làm khổ mình, khổ người được ấn tống và được phổ biến khắp cùng thì mọi người, ai cũng đều được đọc kinh sách này giúp cho họ có một đời sống đạo đức toàn thiện, một đời sống giải thoát an lạc. Đó là sự ấn tống kinh sách đạo đức nhân quả là gieo duyên quy y Tam Bảo và thọ ngũ giới cho những người thân thương đã quá cố. Đó là sự báo hiếu rất lớn của chúng ta khi cha mẹ đã qua đời, những việc làm này đem đến lợi ích ngay liền là những người chung quanh chúng ta đang sống, họ trở thành những người sống có đạo đức làm người, biết mang lại sự không đau khổ cho nhau, đó là chân hạnh phúc của loài người thiết thực và cụ thể hơn.


323-TRIỆU LINH TIẾP LINH

 

323-TRIỆU LINH TIẾP LINH

Câu hỏi của Liễu Hương

HỏiKính thưa Thầy! Lúc lâm chung, theo chúng con nghĩ, vong linh vẫn còn trong nhà, khi mời thầy cúng đến làm lễ phải triệu vong tiếp vong rồi mới tụng kinh. Như vậy có đúng không thưa Thầy?

Đáp: Theo đạo Phật khi một người chết, tức là thân tứ đại tan rã, mà thân tứ đại tan rã thì thân ngũ uẩn cũng không còn sót một thứ gì, nghĩa là tất cả đều hoại diệt sạch, không có vong linh và thần thức nào còn, chỉ còn lại hành động thiện ác, tức là “nghiệp lực” và nghiệp lực tiếp tục tái sanh luân hồi.

Cho nên, đối với đạo Phật không có triệu linh và tiếp linh, vì có linh hồn đâu mà triệu và tiếp. Cái không có người ta tưởng ra cho có, thì đó là mù quáng vô minh không hiểu biết. Người Phật tử không nên nghe theo lời dạy vô minh này.

Tất cả thế giới hữu hình có con người và vạn vật cỏ cây, đất đá núi sông, dưới đôi mắt của đức Phật chỉ là những cảnh huyễn giả, những cảnh tưởng tri không có thật. Cảnh hữu hình còn như vậy thì cái thế giới vô hình làm sao có thật được mà cầu mà cúng, mà triệu linh, tiếp linh. Phải không quý vị?

Nếu thế gian này có thật thì phải có một vật hằng còn. Nhưng dòng lịch sử của loài người chưa chứng minh có một vật gì hằng còn, tất cả đều hoại diệt theo thời gian năm tháng.

Cho nên, những việc làm của các nhà phát triển kinh sách Bà La Môn là việc làm mê tín dị đoan, lừa đảo con người. Vậy chúng ta là những Phật tử đệ tử của Phật, mà lại đi nghe và làm theo những lời dạy không đúng sự thật, thì chúng ta có xứng đáng là đệ tử của Phật nữa không? Người tín đồ của Phật giáo không nên nghe và làm theo những việc mê tín dị đoan, ngu si để bị người khác lừa đảo thì quá dại dột.


322-LINH HỒN BÁO MỘNG

 

322-LINH HỒN BÁO MỘNG

Hỏi: Kính thưa Thầy, trong thời gian từ lúc mới chết đến bốn mươi chín ngày, người trong nhà thường hay nằm mộng thấy người chết về. Vậy có phải linh hồn người chết về báo mộng hay không?

 Đáp: Trong nhà có người mới chết, không những 49 ngày mà còn nói rằng, có thể đến khi mãn tang 2 năm, vẫn còn nằm mộng thấy người chết. Đó không phải linh hồn về báo mộng, mà chính tưởng ấm của người thân trong gia đình nằm mộng biến hiện ra hình ảnh người chết. Vì tình cảm thương nhớ người mất, nên tưởng ấm xuất hiện giấc mộng để khiến cho người thân thỏa tình nhớ thương, chứ không có linh hồn nào cả.

 Giấc mộng do tưởng thức hoạt động mà thành, nó thể hiện tình cảm, tâm lý và sự ước ao của người sống đối với người chết. Người thân, thương nhớ người quá cố thì nằm mơ thấy người chết về.

 Ước mong nằm mộng thấy thành tựu điều ao ước như: trúng vé số. Giao cảm nằm mộng thấy sự việc hoặc tai nạn xảy đến đều có đúng như thật. Đó là tưởng giao cảm, biến thành mộng báo trước (trực giác qua mộng), trực giác qua thân (máy mắt, hồi hộp tim đập), trực giác qua tâm (tâm lo lắng nghĩ ngợi, bứt rứt).

 Nói về mộng, thì quý Phật tử đừng nghĩ rằng có linh hồn người chết. Mà hãy biết đó là tưởng thức tự tạo ra bối cảnh theo tâm lý, tình cảm của con người rồi nó tự hiện, chủ khách đều là nó cả.

 Trong thân ngũ uẩn nó là tưởng uẩn, còn gọi về thức thì nó gọi là tưởng thức, còn gọi về dục thì nó gọi là tưởng dục, còn gọi về vô minh nó được gọi là vô minh tưởng, và gọi về trí tuệ thì nó gọi là tưởng tuệ, còn gọi về tri kiến thì nó gọi là tưởng kiến, còn gọi về tri thì nó gọi là tưởng tri, còn gọi về năng lực thì nó là tưởng lực.

 Cho nên, tưởng uẩn nó có rất nhiều tên khác nhau, khi nó ở phận sự nào thì nó có một cái tên rất xứng hợp. Vì thế sự hoạt động của nó cũng không lường.

 Tóm lại linh hồn không có, chỉ có tưởng thức biến hiện ra, khiến cho mọi người chưa có trí vô hạn lầm chấp “có sự sống sau khi chết”.

 (Trích Đường Về Xứ Phật tập VII)


321-LINH HỒN TƯỞNG/ 3

 

321-LINH  HỒN TƯỞNG/ 3

Khi ý thức ngưng hoạt động, giống như người đang ngủ, thì tưởng thức hoạt động, sinh ra giấc mộng (chiêm bao). Tưởng thức cũng do ý căn (bộ óc và hệ thần kinh) điều khiển.

Cho nên một người bị bệnh tim, gan, phèo, phổi, v.v… thì bộ phận bị bệnh đó bị ngưng hoạt động, được xem như chết, nhưng thật ra chưa chết hẳn, ý thức ngưng hoạt động, hơi thở dừng, tim không đập, nhưng hệ thần kinh tưởng còn hoạt động, tức là tưởng thức hoạt động như chiêm bao. Giấc chiêm bao đó gọi là “cận tử nghiệp”. Hằng ngày trong cuộc sống họ ưa thích làm những điều ác, điều thiện, như đi chùa, đi nhà thờ, cúng bái, tụng niệm, ngồi thiền, ước vọng được sanh lên Thiên Đàng gặp Chúa, được vãng sanh về Cực Lạc Tây Phương gặp Đức Phật Di Đà, được thấy hào quang ánh sáng của chư Thiên, chư Phật, chư Bồ Tát, v.v… Đó là những người theo các tôn giáo và được những giáo pháp của các tôn giáo này ghi những ấn tượng vào đầu óc của họ bằng những hình ảnh Chúa, Phật, ánh sáng, hào quang, hoa sen, thì cận tử nghiệp sẽ thể hiện giấc mộng y như hình ảnh đó. Lợi dụng cận tử nghiệp, Tịnh Độ Tông xử dụng hộ niệm để giúp người sắp chết, thực hiện giấc mộng trực vãng Tây Phương. Tịnh Độ Tông nghĩ rằng: nghiệp cuối cùng (cận tử nghiệp) có thể thể hiện được những ước ao và ý nguyện lúc còn sống. Đó là về phần của những người có tôn giáo.

Còn những người không tôn giáo, thì cận tử nghiệp thực hiện giấc mộng theo tâm ham muốn danh, lợi, thương, yêu, mến, tiếc, giận hờn, tức tối, thù hận, căm ghét, la hét, sợ hãi, v.v… Đó là những điều làm ác, ngược lại làm thiện thì cũng thấy cảnh vui tươi, hoan hỷ, sung sướng v.v…

Vì huân tập thành thói quen (nghiệp lực), lúc sắp chết, tưởng thức hoạt động từa tựa như giấc chiêm bao. Khi chiêm bao, chỉ có sáu thức (sắc thức) ngưng hoạt động, còn toàn bộ cơ thể đều hoạt động bình thường. Người sắp chết, cũng ở trong trường hợp này sáu thức (sắc thức) ngưng hoạt động nhưng lại khác là do một tạng phủ nào bị hư hoại không hoạt động được, chứ không giống như người ngủ chiêm bao. Đó là trường hợp người sắp chết tưởng thức hoạt động, nên thấy mình xuất hồn ra khỏi thân và thấy thân đang nằm trên giường bệnh, các y, bác sĩ đang làm hô hấp cứu chữa. 

Nhưng cũng có người lúc lâm sàng trên giường bệnh chết, bấy giờ duyên năm uẩn chưa phân ly, nên tưởng thức hoạt động, bịnh nhân như nằm mộng, thấy hào quang ánh sáng, chư Thiên Thần, chư Tiên, chư Phật, chư Bồ Tát, Ngọc Hoàng, Thượng đế, quỉ sứ, ngưu đầu, mã diện, vua Diêm La, v.v… Nhờ hô hấp, cứu chữa của y, bác sĩ, bệnh nhân tỉnh lại, giống như một giấc mộng và kể lại cho những người thân nghe: “chắc chắn có sự sống sau khi chết, có địa ngục hẳn hoi”.

Qua những hình ảnh đó, con người không ngờ, đó là một hình bóng, do tâm ước muốn mà tưởng thức thể hiện qua giấc mộng cận tử nghiệp. Nếu năm duyên ngũ uẩn phân ly tan rã thật sự thì chẳng còn gì là của ta nữa hết, linh hồn, thần thức, Phật Tánh cũng tiêu tan hết, chỉ còn lưu lại nghiệp thiện, nghiệp ác mà thôi và tiếp tục theo nghiệp thiện, nghiệp ác đó, tương ưng vô minh theo hành động nhân quả của kẻ khác tái sanh luân hồi (Vô minh sanh hành, hành sanh thức).

Từ vô minh, chúng ta tạo nghiệp thiện nghiệp ác trong cuộc sống hằng ngày, đến khi chết rồi, chỉ còn lại nghiệp thiện, nghiệp ác đó, rồi cũng theo vô minh, tiếp tục tái sanh luân hồi kiếp khác. Cứ mãi như vậy, trôi lăn trong dòng nước nghiệp muôn kiếp muôn đời.

Do thế, đức Phật dạy: “con người từ nhân quả sanh ra, sống trong nhân quả và chết trở về nhân quả”. Chúng ta biết rất rõ chẳng có thế giới siêu hình, chẳng có đấng tạo hóa nào cả sanh chúng ta ra và cũng chẳng có ai ban phước, giáng họa cho ta được, mà chính chúng ta biết dừng dòng nước nghiệp thì tất cả tai nạn, bệnh tật, đau khổ và sự tái sanh luân hồi đều chấm dứt.

Trí hữu hạn của con người không thấu suốt và không thấy rõ thế giới nhân quả, nên lầm chấp có thế giới này, có thế giới kia, rồi sanh ra dính mắc, cái này thường hằng, cái kia vô thường, từ đó tranh luận theo tưởng giải, kiến chấp, ngã chấp của mình, sản xuất ra biết bao nhiêu cái sai lầm, sai lạc, tự cho cái này đúng, cái kia sai, rồi chia phe nhóm ra bài bác, chỉ trích lẫn nhau, loanh quanh, lẩn quẩn, suy tới nghĩ lui cũng chỉ ở trong vòng tưởng thức mà thôi, không thể nào vượt ra khỏi sự hiểu biết hữu hạn của ý thức con người.

Đời sống của con người, sự hiểu biết lúc bình thường là ý thức, đến khi gặp thiên tai, hỏa họa, sấm sét, chớp giăng, lũ lụt, bão tố, tai ách, bệnh tật nan y, v.v…Trước những cảnh quá khiếp đảm sợ hãi đó, ý thức không thể nào hiểu nổi được, nên tưởng thức bắt đầu hoạt động, thì thế giới siêu hình hiện ra, có những vị Thần trong tâm tưởng của họ như: Thần Mưa, Thần Sấm, Thần Sét, Thần Núi, Thần Sông, Thần Cây, Thủy Thần, Hỏa Thần, Thổ Thần, v.v… Tất cả những vị Thần này có thể ban phước, giáng họa cho loài người.

Với lòng thành kính tin tưởng và lúc nào cũng tựa nương vào những đấng thần linh này, nên có việc lớn, việc nhỏ gì cũng đều van vái, cầu khẩn, cúng bái các vị thần linh đó. Lòng tin tưởng đó bắt đầu có hiệu nghiệm, thấy có sự linh nghiệm rõ ràng, cho nên người ta nói rằng: gò mối mà cứ đến thắp hương cúng bái, thì gò mối cũng linh hiển. 

Cái linh hiển đó từ nơi đâu mà có? Chưa có ai hiểu được, ngoại trừ những bậc chơn tu, thạc đức, tu hành đúng theo đường lối của đạo Phật Thích Ca đạt đến Tứ Thiền, Tam Minh mới biết rõ từ nơi tưởng ấm của con người nhờ sức “ám thị” tạo ra, hay nói một cách khác sự linh hiển đó, do lòng tin tưởng của chúng ta tự động ám thị trong tâm chứ không phải có các thần linh trong thế giới siêu hình linh hiển thật sự.

Từ sự linh hiển đó, khiến cho người ta tin rằng, có thế giới siêu hình thật sự, có ma, có quỉ, có linh hồn người chết thật sự. Tin tưởng vào những hình bóng như vậy, gọi là mê tín, tin mà quên mình, dám hy sinh cho những thần linh đó, gọi là cuồng tín. Đó là giai đoạn đa thần, do từ lòng quá sợ hãi của con người trước những hiện tượng siêu nhiên đó nên đã sản xuất ra bằng tưởng thức, để an ủi tinh thần lúc quá khiếp đảm sợ hãi.

Tôn giáo ra đời cũng dựa vào lòng mê tín đó, không bỏ bớt các vị thần kia nhưng lại xây dựng một thế giới siêu hình nhất thần, do các đấng giáo chủ có đủ quyền năng điều khiển và sai khiến được các vị thần của dân gian đặt ra, họ có quyền năng tối cao hơn các vị thần khác, nên con người tin theo và xin gia nhập vào tôn giáo đó để được các vị thần trên cao hết ban phước cho mình.

Các nhà làm tôn giáo, chỉ cần thực hiện một vài thần thông tưởng nho nhỏ, do sự tu tập thiền định tưởng, hoặc dùng tưởng lực bùa chú, tạo ra những thần lực mà con người bình thường không thể làm được, thì mọi người sẽ theo tôn giáo mình rất nhiều. Ví như biến hóa, tàng hình, đi trên nước, đi trên lửa, đi trên hư không như chim bay, biết chuyện quá khứ vị lai của người khác, trị bệnh, trừ tà, ếm quỉ, v.v… Làm những việc như vậy sẽ có nhiều người theo tôn giáo mình rất đông.

Có một số tôn giáo lợi dụng sự trị bệnh và cứu trợ tiền bạc, thực phẩm, gạo, sữa, đường, thuốc thang, v.v… để lôi cuốn mọi người vào tôn giáo mình. Đó là mánh khoé của các nhà làm tôn giáo. Cho nên Đại Thừa giáo cũng có Tứ Nhiếp Pháp để nhiếp phục người khác vào tôn giáo mình.

Do dùng tưởng tập luyện, nên tâm danh, lợi, sắc dục vẫn còn, vì thế, khi có chút ít thần thông, thì lập thành một giáo phái, rồi hướng dẫn người theo giáo phái mình tu tập. Nếu vị giáo chủ không sa ngã danh, lợi và sắc đẹp, có giới luật, có kỷ cương hẳn hoi, có pháp hành và tu tập có kết quả, thì giáo phái đó được duy trì lâu dài, còn ngược lại không có kỷ luật, vị giáo chủ đắm say danh lợi và sắc dục thì thần thông tưởng biến mất, vị giáo chủ kia đi ở tù vì tội lừa đảo.

Trong đương thời phát triển đạo giáo, thì vị giáo chủ bày ra đủ thứ mê tín, khiến con người hao tốn tiền bạc rất nhiều, nhưng cũng có điều dạy rất tốt là dạy người làm lành, biết thương yêu nhau, bố thí giúp nhau trong cảnh hoạn nạn, tương thân tương trợ đoàn kết với nhau. Nhưng rất độc tài và bảo thủ tôn giáo mình nên sách động tín đồ làm việc cực ác. Phần nhiều có chiến tranh tôn giáo trên hành tinh này đều do tôn giáo gây ra, máu xương con người chất như núi.

Bởi vậy, tôn giáo ra đời có lợi mà cũng có hại, lợi là dạy người làm thiện, tu thiện, biết thương yêu nhau, đùm bọc lẫn nhau; hại là tôn giáo này tranh giành tín đồ với tôn giáo khác, vì hệ tư tưởng khác nhau. 

Nhưng xét cho cùng, tất cả các tôn giáo khác trên thế gian này đều lấy tưởng thức tu tập, thậm chí như: Võ công, Khí công, Khinh công, Nội công, Yoga, Dưỡng sinh đều tập luyện bằng tưởng lực, chỉ trừ ra Phật giáo không dùng tưởng.

Phật giáo lấy ý thức chủ động điều khiển, lấy đạo đức nhân quả làm nền tảng vào đời, nên không làm khổ mình, khổ người, luôn sống với trí tuệ nhân quả, chuyển hóa được quả xấu thành quả tốt, luôn tạo nhân lành bằng hành động thân, miệng, ý; tránh tạo nhân ác, khiến đời sống mình và mọi người đều được tràn đầy hạnh phúc, an vui, sống chan hòa với nhau.

Những giáo lý và pháp môn đạo đức cao quý này của Phật giáo, đã bị những giáo lý tưởng giải, kiến giải của các nhà học giả Đại Thừa triển khai ra và đã tìm mọi cách dìm mất giáo lý của đạo Phật, nên hiện giờ con người trên hành tinh này đã đánh mất đi nền đạo đức nhân bản – nhân quả tuyệt vời không làm khổ mình, khổ người.

Nếu các tôn giáo cho rằng: có đời sống sau khi chết, và lấy những mẩu chuyện cận tử nghiệp của nhà sưu tầm Raymond A-Moody cho là thật, thì chúng tôi xin nêu một ví dụ. Ví dụ, có một bệnh nhân cần phải mổ, thì trước khi mổ phải gây mê cơ thể cho người này. Khi bị gây mê, người này không còn biết gì hết, giống như người ngủ say, thì lúc bấy giờ linh hồn người này đâu bị gây mê, sao linh hồn họ lại mất tiêu, không xuất linh hồn ra ngoài thân, để xem lại thân họ đang bị mổ, như các trường hợp trong sách này thuật lại. Trường hợp thứ hai, các nhà Thiền bảo rằng: “thể tánh con người hằng biết, hằng nghe, hằng thấy. Vậy, sao lúc gây mê chẳng còn nghe thấy biết gì cả?”

Phật dạy: Người sắp chết thường thể hiện cận tử nghiệp như giấc mộng, thấy cảnh giới này, cảnh giới khác, có người thì mê man bất tỉnh chẳng biết gì cả, đó là tùy theo nghiệp (thói quen do lòng ham muốn), tiếp tục tái sanh, luân hồi theo nghiệp lực dục tương ưng với đối tượng nghiệp lực dục đó, ngay liền sau khi thân này không còn phục hồi lại được nữa. Do đó sự sống sau khi chết không có, chỉ có cuộc sống hiện hữu đang tiếp diễn trong luật vô thường nhân quả, từ thân này đến thân khác liên tục mãi, tiếp nối nhau mãi không bao giờ có kẽ hở, như ngọn đuốc này tắt, tiếp nối ngọn đuốc khác.

Đó là đạo luật nhân quả bất di bất dịch, muôn đời muôn kiếp của loài người không có ai thay đổi được, bởi vì con người từ nhân quả sanh ra, sống trong nhân quả và chết trở về nhân quả.


320-LINH HỒN TƯỞNG/ 2

 

320-LINH  HỒN TƯỞNG/ 2

Ngài chấp nhận cõi địa ngục, là chấp nhận những việc làm ác của con người. Những hành động ác đó sẽ mang đến cho họ một cuộc sống tai ương, họa khổ, bất an. Đó là cảnh giới địa ngục, tại thế gian này, chứ không có cõi địa ngục nơi nào khác cả.

Cho nên, “Thiên Đàng” hay “Địa Ngục” đều ở tại cảnh giới thế gian này, do chính bàn tay, khối óc, lời nói của con người tạo ra, chứ không phải có cảnh giới Thiên Đàng, Địa Ngục có thật để trừng phạt và khen thưởng con người.

Theo giáo lý của Đức Phật dạy: “chẳng có ai ban phước giáng họa cho con người, mà chính con người tự ban phước giáng họa cho mình”. Ngài chấp nhận cảnh giới Niết Bàn là chấp nhận một trạng thái tâm hồn đoạn diệt lòng ham muốn và các ác pháp.

Ngài không chấp nhận thế giới siêu hình huyễn hoặc, do tưởng tri bịa đặt ra để lừa đảo, lường gạt người khác, tạo cảnh giới mê tín, khiến cho con người tiền mất tật mang, mà chẳng ích lợi gì cho cuộc sống. 

Ngài thường cho thế giới đó là thế giới bóng dáng của thập nhị nhân duyên, thế giới tưởng tri của con người, vì vô minh chẳng rõ nên lầm chấp là có thật mà thôi.

Thời đại đức Phật ra đời là thời đại mà tình trạng dân trí còn thấp kém, lạc hậu, nên họ thường sống trong tưởng tuệ, không thể hiểu được thực thể của các pháp, lại luôn luôn bị các nhà tôn giáo “tưởng” dồn nhét vào đầu óc họ những hình ảnh thần linh huyền bí thần thông siêu việt, những linh hồn ngự trị ở cây cao bóng mát, những ma thiêng như đom đóm lập loè trong đêm tối, những vị thần linh khổng lồ vĩ đại, đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế đầy quyền uy, sáng tạo vũ trụ, cai trị vũ trụ, xử phạt, giáng họa, ban phước cho cả loài người và chư thiên.

Muốn cho thế giới tưởng đó hoạt động một cách hiệu nghiệm, các nhà tôn giáo dùng năng lực tưởng ấm của mình, bằng cách “ức chế ý thức và ám thị tưởng ấm”, khiến cho ý thức phải ngưng nghỉ, tưởng thức hoạt động. Muốn cho ý thức ngưng hoạt động và tưởng thức hoạt động các nhà tôn giáo phải tọa thiền, tụng kinh, trì chú, niệm Phật, luyện bùa, luyện chú, ám thị, kệ tụng kêu gọi âm binh, tạo cảnh hồn ma, phách vía mờ mờ, ảo ảo, nói chuyện quá khứ, vị lai, trị bệnh, trừ tà, ếm quỷ, trừ ma linh hiển, khiến cho người ta quá sợ hãi và tin tưởng.

Cũng do thế giới siêu hình huyền ảo đó, bằng cách này hoặc bằng cách khác, các nhà tôn giáo tưởng giải ra mọi hình thức trừu tượng ảo ảnh làm cho con người đang sống trong tai ương, hoạn họa, bệnh tật khổ đau của nhân quả và đứng trước cảnh thiên tai, thủy tai, hỏa tai, địa họa, sấm sét kinh thiên động địa, làm sao con người không sợ hãi, khiếp đảm và không tin tưởng thế giới siêu hình được.

Vì sợ hãi, con người phải xin gia nhập vào tôn giáo để nương tựa, nhờ sự gia hộ, cứu độ của đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, Chúa, chư Phật, chư Bồ Tát, v.v… Từ đó con người đặt trọn niềm tin sống trong thế giới siêu hình tưởng, một thế giới hình bóng, mà không biết cứ ngỡ rằng đó là thế giới siêu hình chơn thật, họ tin đến khi họ chết bỏ thân này sẽ trở về thế giới siêu hình đó. Vì vậy mọi việc làm thiện ở đời này, đều hồi hướng cầu mong được chấp nhận để về nơi Thiên đàng ấy. Đó là ảo tưởng của con người thời xa xưa, và ngay cả con người thời khoa học bây giờ cũng đang ở trong tâm nguyện như vậy.

Thế giới siêu hình này đã ăn sâu vào tâm trí, suy nghĩ, tin tưởng của con người, trở thành một truyền thống lâu đời, khó mà gọt sạch được trong thời gian ngắn, mặc dù hiện giờ có người đã biết đó là một thế giới tưởng (thế giới không thật có). 

Tuy biết vậy nhưng cũng không thể bỏ được. “Vả lại, trí hữu hạn của con người, không tài nào họ hiểu sự vật đúng như thật được, nên dù sao họ cũng phải tin rằng có thế giới siêu hình.”

Đạo Phật ra đời, trong một giai đoạn con người đang sống trong thế giới tưởng, chịu ảnh hưởng của các tôn giáo thần quyền rất sâu đậm, nên khó thuyết phục để con người đập phá thế giới siêu hình một sớm một chiều được. Vì vậy, đức Phật nói thẳng, nói mạnh, ai muốn hiểu sao tùy ý, sáng suốt thì nhờ, vô minh mù mờ thì chịu. 

Cho nên, có những bài kinh đức Phật nói rất mạnh để xác định rõ ràng thế giới siêu hình không có, chỉ là tưởng tri.

Đọc kinh sách Nguyên Thủy, ta nhận xét rõ đạo Phật ra đời quyết đem lại một sự hiểu biết thật sự cho con người, một cuộc sống chơn thật, khiến cho con người không còn lầm lạc để thoát ra khỏi cảnh khổ đau, bất an, bất toại nguyện, v.v…

Pháp môn của Ngài tu tập, thiết thực, cụ thể, rất khoa học, không mơ hồ, trừu tượng, viển vông, thực hành để thoát khổ của kiếp làm người.

Muốn thoát kiếp khổ làm người, thì phải thực hiện một đời sống Phạm hạnh của một tu sĩ Phật giáo (giới luật) và tập tỉnh thức trong từng tâm niệm của cuộc sống, không làm khổ mình, khổ người bằng ý thức cụ thể, rõ ràng; đối với các pháp, luôn luôn lúc nào cũng cảnh giác không để tưởng thức xen vào. Vì có tưởng thức xen vào, thì mất ý thức tỉnh giác đối với các pháp, lúc nào tà niệm cũng hiện tiền, có tà niệm thì có ác pháp sanh khởi; ác pháp sanh khởi thì con người phải chịu khổ đau. Khi con người có khổ đau, có tai nạn, có bệnh tật, v.v… thì thế giới siêu hình tưởng phải đến với họ.

Khi đức Phật còn tại thế, người ta đặt trọn niềm tin ở Phật, nhờ thế mà có một số người sống đúng Phạm hạnh như Phật nên mới tu chứng đạt chân lí thật sự, vì sống theo gương hạnh của Phật, cho nên thoát ra khỏi kiếp khổ của con người, làm chủ sự sống chết, luân hồi. Đến khi đức Phật và các bậc Thánh Tăng nhập diệt, không còn ai làm gương hạnh, nên Phạm hạnh không còn với những bậc phàm Tăng. Giới luật bị bẻ vụn, không còn ai giữ gìn nghiêm túc, sống phóng dật theo dục lạc thế gian, ăn ngủ phi thời, sống không thiểu dục tri túc và không phòng hộ sáu căn. Từ đó các Ngài dựa vào pháp môn của ngoại đạo triển khai thành kinh sách Đại Thừa phát triển, thường lý luận để bảo vệ sự phạm giới, phá giới của mình, hòng che mắt tín đồ, biến dần giáo pháp của đạo Phật thành một giáo pháp mê tín: Phật giáo biến thành thần giáo, đức Phật biến thành ông thần chuyên làm việc gia hộ ban phước. Pháp môn của Phật dùng để trau dồi thân tâm, sửa những lỗi lầm, xa lià ác pháp, viễn ly tâm ham muốn, và tu tập nhập các loại định làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Thế mà bây giờ lại biến thành giáo pháp tụng niệm, cúng tế, trừ tà, ếm quỉ, trị bệnh, cầu an, cầu siêu, v.v… Đại Thừa phát triển dựng lên 33 cõi trời, và vô số cõi Phật, có một cõi Cực Lạc Tây Phương rất lý tưởng của loài người, một bản thể siêu việt vĩ đại (Phật tánh) thường, lạc, ngã, tịnh, an lạc và bất biến mãi mãi trường tồn. Kể ra tất cả các tôn giáo trên thế gian này, không có một tôn giáo hữu thần nào hơn được Phật giáo Đại Thừa.

Theo tưởng giải, dựa vào giáo pháp của ngoại đạo, kinh sách phát triển Đại Thừa đã dìm mất giáo pháp chơn chính của đạo Phật, đến giờ này, ngay chính vào thời đại của chúng ta là thời đại khoa học hiện đại, thế mà những con người có học thức, có trình độ trên đại học, vẫn còn tin có thế giới siêu hình và cũng còn mê tín như những người dân lạc hậu xưa kia, thì làm sao những người dân lao động, thiếu học không tin được.

Các học giả Đại Thừa giáo rất khéo léo, đem tất cả giáo lý của ngoại đạo pha trộn lại, vay mượn giáo pháp Nguyên Thủy Phật giáo, biến thành giáo lý Phật giáo Đại Thừa, nhờ đó dễ bề lừa đảo tín đồ Phật giáo, trong mọi giai cấp con người.

Trong khi giới bình dân ít học, kiến thức hiểu biết còn hạn hẹp, trước cảnh tai ương, hoạn họa, bệnh tật nan y; trước cảnh thiên tai, dịch họa; trước cảnh bão lụt, địa chấn, hỏa sơn, khiến cho con người khiếp đảm, sợ hãi, trong sự khiếp đảm sợ hãi đó con người tưởng ra những vị thần linh có đầy đủ oai lực, có sự ban phước và cũng có sự giáng họa, theo hành động thiện ác của mỗi người. Lợi dụng tưởng tri mê tín này của người bình dân, các tôn giáo xây dựng thế giới siêu hình, biến thành cõi Thiên Đàng và Địa Ngục, có chư Phật, Thánh, Tiên, Thần, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Diêm la, Thủy phủ, tà, ma, quỉ quái, v.v… Xây dựng thế giới siêu hình xong các vị giáo chủ sản xuất những loại kinh, cúng tế, tụng niệm, cầu an, cầu siêu, làm lành, bố thí, phóng sanh và còn kêu gọi cúng dường trai Tăng, xây chùa, cất tháp, lập miếu, dựng đình, v.v…

Giới trí thức có hiểu biết hơn, thì không tin sự mê tín vu vơ đó, lại tin vào sự mê tín trừu tượng như: Bản Thể Vạn Hữu, Tâm, Tánh, Phật Tánh, v.v… Do đó họ chạy theo những pháp môn thiền định, tu tập để mong “Kiến tánh thành Phật”. Thật là buồn cười cho mọi người. Khi thấy tánh thành Phật thì làm lợi ích gì cho mình, cho người, hay chỉ dùng ba tấc lưỡi lừa đảo người khác. Thấy tánh thành Phật có hết tâm tham, sân, si không? Có làm lợi ích gì cho kiếp sống của con người không? Hiện giờ biết bao nhiêu người đã kiến tánh thành Phật mà đã hết tâm tham, sân, si chưa? Đã thành Phật chưa? Phật như thế nào? Hay là những danh từ “đại giác” suông? “chứng đạo” suông? “Giác ngộ” suông? Kiến tánh thành Phật sao còn tham tiền, tham bạc, ăn ngủ phi thời, giới hạnh, giới đức chẳng có, sống phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới, v.v… 

Trong khi đạo Phật, không chấp nhận thế giới siêu hình, không chấp nhận tụng kinh, cúng bái, cầu nguyện, tế lễ, thì cúng bái tụng kinh, cầu khẩn và tế lễ với ai cho ai đây? Đạo Phật là Đạo vô ngã. Vậy, ngồi thiền nhập định để kiến tánh thành Phật là Phật gì? Vô ngã sao lại còn có Phật?

Đạo Phật là một tôn giáo ra đời để giải quyết bốn điều khổ của kiếp người “sanh, già, bệnh, chết”. Giáo pháp của Phật Thích Ca xây dựng trên nền tảng “Đạo đức nhân bản – nhân quả sống không làm khổ mình, khổ người”. Pháp môn của Phật Thích Ca dạy tu tập tỉnh thức là để ngăn chặn lòng tham muốn và ngăn chặn các ác pháp, nhờ đó mới mang lại sự an vui, thanh thản và hạnh phúc cho mình, cho người. Một giáo pháp rất thực tế và cụ thể cho mọi người, nếu mọi người ai cũng ý thức và hiểu biết về pháp môn này, nỗ lực thực hiện, sống đúng lời dạy của đức Phật Thích Ca, thì xã hội loài người sẽ trở thành Thiên Đàng, Cực Lạc, có cần gì đi tìm cõi Thiên Đàng, Cực Lạc mơ hồ, trừu tượng kia, mà chẳng bao giờ có.

Vừa rồi, chúng tôi được đọc một cuốn sách tựa đề “Sự sống sau khi chết”. Đọc xong cuốn sách này, nếu người nào không có tu tập theo giáo lý Nguyên Thủy của đạo Phật và không có chứng nghiệm pháp hướng tâm, thì chắc chắn phải tin rằng có thế giới siêu hình. Toàn bộ cuốn sách tác giả đã lượm lặt những mẩu chuyện “cận tử nghiệp”. Tác giả này chưa bao giờ tìm hiểu Phật giáo và nếu bây giờ có tìm hiểu và nghiên cứu Phật giáo thì ông ta cũng vẫn hiểu lầm lạc, vì một đám mây mù giáo pháp của Đại Thừa đã che phủ và lấp kín lời dạy của đức Phật Thích Ca. Những mẩu chuyện cận tử nghiệp của bao nhiêu người lâm sàng trên giường bệnh trong bệnh viện, tác giả đều cho đó là trạng thái của cuộc sống sau khi chết. Tác giả đâu biết rằng trong thân tứ đại này, khi con người còn sống có cả hai thế giới hữu hình và vô hình, nhưng khi thân tứ đại này chết, thì cả hai thế giới ấy đều diệt sạch.

Khi thân này còn sống, cái gì hoạt động trong thế giới hữu hình? Và cái gì hoạt động trong thế giới vô hình? Khi còn sống, con người hoạt động trong thế giới hữu hình bằng “sắc thức”. Sắc thức gồm có sáu thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức; còn hoạt động trong thế giới vô hình thì chỉ bằng một “tưởng thức”.

Bình thường hằng ngày chúng ta sống làm mọi việc, thì ý thức điều khiển hoạt động do ý căn (bộ óc và thần kinh).


319-LINH HỒN TƯỞNG / 1

 

319-LINH  HỒN TƯỞNG / 1

Thầy Thích Thông Lạc

Hỏi: Kính thưa Thầy, theo người đời nói: “Người ta khi chết đi, thì hồn siêu phách lạc, hồn ở cây cả bóng cao, cầu ao, bóng mát và linh hồn người chết đi khắp đó đây”, có phải vậy không thưa Thầy?

Đáp: Trong giáo lý của đạo Phật dạy: con người do năm duyên hợp lại thành, nên gọi là thân ngũ uẩn, khi người chết năm uẩn này tan biến mất, thân tứ đại này trở về với cát bụi hư vô, không còn sót một vật gì thường hằng (linh hồn hay Phật tánh).

Đức Phật đã xác định trong kinh như vậy, thì làm sao có hồn xiêu, phách lạc, ở cây cả, bóng cao, cầu ao, bóng mát, đi đây, đi đó khắp nơi. 

Đó là một sự mê tín trong dân gian, với trí hữu hạn của con người không thể làm sao biết thế giới siêu hình được, nên tưởng ra như vậy. Còn các nhà tôn giáo tu hành chẳng tới đâu, rồi cũng dựa vào sự mê tín lạc hậu của dân gian ấy, để xây dựng tôn giáo của mình có một thế giới Thần Tiên (chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, v.v…), là một thế giới siêu hình đầy hạnh phúc, mà cũng là ước mơ của loài người. Nhưng đó chỉ là một thế giới ảo tưởng để mà thỏa mãn ước mơ.

Đã có thế giới Thần, Tiên tràn đầy hạnh phúc và an lạc, thì phải có thế giới địa ngục; mà đã có thế giới địa ngục thì phải có thế giới ma quỷ, có linh hồn người chết, có các đảng và cô hồn vất vưởng cây cao, bóng cả, cầu ao, bóng mát. Phần nhiều người ta nghĩ rằng những linh hồn của người chết oan không đi đầu thai được nên phải ở cây cao, bóng mát như vậy.

Trong bài kinh “Pháp Môn Căn Bản” (kinh số 1, Trung Bộ 1, Mùlapariyàya Sutta, MN.1)Đức Phật đã chỉ dạy cho chúng ta biết: do trí hiểu biết của chúng ta có hạn lượng, nên đối với các pháp không thể hiểu rõ, luôn luôn bị lầm chấp, vì dùng tưởng xác định các pháp, nên hiểu từ cái sai này đến cái sai khác.

Đã không hiểu rõ cái thế giới hữu hình mà mọi người đang sống, nên lầm chấp các pháp trong thế giới này là thật có, rồi sanh ra dính mắc. Do dính mắc không bỏ được, nên tạo biết bao nhiêu sự đau khổ cho mình cho người, trải suốt nhiều đời kiếp.

Thế giới siêu hình là thế giới hình bóng của thế giới hữu hình. Thế giới hữu hình mà chúng ta đang hiểu biết bằng tưởng tri, thì thế giới siêu hình cũng hiểu biết như vậy. Do đó ta suy ra biết thế giới hữu hình và thế giới siêu hình là thế giới tưởng (thế giới không thật có).

Sự lầm chấp của con người, dùng tưởng để hiểu thân ngũ uẩn của mình, nên ai ai cũng cho thân ngũ uẩn là có thật, cho trong thân ngũ uẩn này có linh hồn bất biến từ vô thủy, cho linh hồn đó là bản ngã của ta, còn thân ngũ uẩn này là của riêng ta (vật sở hữu của chính mình). Vì thế ai động đến thân tâm của ta, thì sẽ ăn thua đủ, không nhịn ai hết; nếu sức yếu thế cô thì ấm ức tức giận không bao giờ nguôi.

Cũng từ sự hiểu biết của tưởng tri mà ta tưởng ra người chết có linh hồn không chết. Linh hồn mất thân, không còn chỗ ở nương tựa, nên hồn xiêu phách lạc đi khắp đó đây, hoặc đọa xuống địa ngục thọ nhiều cực hình, chịu nhiều tội khổ, chờ đến khi mãn hạn, mới được tái sanh luân hồi, làm thân chúng sanh hoặc làm thân người.

Cũng từ bài kinh đó (“Pháp Môn Căn Bản ”, kinh số 1, Trung Bộ 1, Mùlapariyàya Sutta, MN.1), Đức Phật đã xác định: “Người ta tưởng tri Sanh vật là Sanh vật… (có thật). Người ta tưởng tri chư Thiên là chư Thiên…(có thật). Người ta tưởng tri Phạm Thiên là Phạm Thiên. Người ta tưởng tri Quang Âm Thiên là Quang Âm Thiên…Người ta tưởng tri Biến Tịnh Thiên là Biến Tịnh Thiên…Người ta tưởng tri Quảng Quả Thiên là Quảng Quả Thiên…Người ta tưởng tri Thắng Giả là Thắng Giả (Abhibhù)…Người ta tưởng tri Không Vô Biên Xứ Thiên là Không Vô Biên Xứ Thiên…Người ta tưởng tri Thức Vô Biên Xứ Thiên là Thức Vô Biên Xứ Thiên…Người ta tưởng tri Vô Sở Hữu Xứ Thiên là Vô Sở Hữu Xứ Thiên….Người ta tưởng tri Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên…Người ta tưởng tri Sở Tri Kiến là Sở Tri Kiến…Người ta tưởng tri Sở Văn là Sở Văn…Người ta tưởng tri Sở Tư Niệm là Sở Tư Niệm…Người ta tưởng tri Sở Tri là Sở Tri….Người ta tưởng tri Đồng nhất là Đồng nhất…Người ta tưởng tri Sai biệt là Sai biệt…Người ta tưởng tri Tất cả là Tất cả…Người ta tưởng tri Niết Bàn là Niết Bàn…”.

Qua đoạn kinh trên, chúng ta thấy rõ, con người đang sống trong thế giới tưởng, mà cứ tưởng rằng có thật. 

Vì tưởng rằng có thật do đó người ta mới đau khổ, vì tưởng rằng Niết Bàn có thật, nên người ta nghĩ đến tự ngã như là Niết Bàn (Phật tánh có bốn đức Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh), nên Phật dạy: “Người ấy tự nghĩ Niết Bàn là của ta – rồi sanh ra dục hỷ Niết Bàn”, tức là ham thích cảnh giới Niết Bàn, Phật dạy tiếp: “Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri Niết Bàn” (“Pháp Môn Căn Bản ”, kinh số 1, Trung Bộ 1, Mùlapariyàya Sutta, MN.1), nghĩa của đoạn kinh trên là chẳng hiểu gì về Niết Bàn cả.

Đọc bài kinh này, chúng ta nhận xét đức Phật đã xác định: “Con người từ chấp ngã, tâm, linh hồn, Phật tánh, bản thể vũ trụ, cho đến 33 cõi trời và cảnh giới Niết Bàn đều do tưởng uẩn tạo ra. Từ đó con ngưòi dùng tưởng tri và ý thức để phân biệt hiểu các pháp, chứ thật sự các pháp không có thật”.

Thế giới siêu hình là thế giới bóng dáng của thế giới hữu hình mà con người lầm chấp có thật. Thật sự nó không có, nó chỉ là một hình bóng của tưởng uẩn tạo ra mà thôi.

Có người đến hỏi Thầy Chơn Thành: “Con người từ đâu sinh ra và chết đi về đâu?”
Thầy Chơn Thành đáp: “Con người sanh ra từ dục, sống trong dục, chết trở về dục”. Nói cách khác cho dễ hiểu hơn và đúng như lời Phật đã giảng trong kinh: “Con người sinh ra do từ nhân quả, sống trong nhân quả và chết đi về nhân quả”.

Bởi con người không rõ luật nhân quả, và không biết lối thoát ra khỏi nhân quả, nên chịu mãi trôi lăn, muôn đời muôn kiếp trong nhân quả. Người hiểu biết nhân quả, luôn giữ gìn mỗi hành động thân, miệng, ý, làm thiện với mình, làm thiện với người, chẳng hề làm một điều ác nào cả, để mình không khổ và người khác không khổ. Theo luật nhân quả người làm thiện như vậy khi chết sẽ sanh nơi thiện, hưởng được phước báo đầy đủ, sanh ra trong gia đình giàu có, muốn chi có nấy, lại được học hành đến nơi đến chốn và được nuôi dạy trong môi trường đạo đức sống toàn thiện, tạo thêm phước báo cho đời sau nữa. Ngược lại, kẻ không hiểu luật nhân quả, thường không giữ gìn những hành động thân, miệng, ý thiện, nên thường làm những điều ác, tạo khổ cho mình cho người, sống quãng đời hiện tại luôn luôn khổ đau, bất an, bất toại nguyện, v.v… Sau khi thân hoại mạng chung (chết) sanh vào nơi bất thiện, hưởng quả báo nghèo cùng, khổ đau, bệnh tật, tai nạn, đói khát, thiếu cơm ăn, áo mặc, sống không nhà cửa, vất vưởng ngủ hè, ngủ chợ, không được học hành. Sống trong môi trường thiếu đạo đức nên càng ngày càng làm nhiều điều ác hơn, tạo nhiều nhân quả xấu, thì đời sống lại càng khổ đau hơn nhiều. Sống trong môi trường ác nghiệt như vậy, thì lại tạo những điều cực ác hơn nữa và như vậy, khi thân hoại mạng chung (chết) phải đọa vào những cảnh khổ hơn, làm người bần cùng và sanh vào những loài thú vật, côn trùng, v.v…

Người đó lại hỏi nữa: “Tại sao các thầy bói lại biết đồ vật trong nhà mình, khi mình đến xem bói”, Thầy Chơn Thành trả lời: “Đó là do tưởng thức, chỉ có người tu chứng mới biết rõ ràng tận nguồn gốc của nó mà thôi”

Thế giới tưởng không thể dùng trí hữu hạn của con người mà hiểu được, chỉ có trí vô hạn của Phật mới thấu suốt và biết nó như thật. Ví như, mới học toán lớp một, mà đòi hiểu toán đại học thì sao hiểu được? Muốn có trí vô hạn lượng, hiểu thấu suốt các pháp, thì phải tu tập. Lời Phật dạy: “Thế giới siêu hình là thế giới tưởng”, muốn biết có hay không có thì phải tu tập theo đúng con đường của đạo Phật, thì tự mình chứng nghiệm không những thế giới siêu hình đó, mà còn thông suốt cả không gian và thời gian tận cùng của vũ trụ.

Qua giáo lý kinh sách Nguyên Thủy của đạo Phật, đức Phật đã xác định nhiều bài kinh rằng:“Thế giới siêu hình chẳng có, đó chỉ là một thế giới tưởng của con người lưu xuất từ tưởng uẩn mà thôi, nó không bao giờ có thật sự”.

Đức Phật cũng còn xác định rằng: “Nếu thế giới siêu hình có thật, thì đạo Phật không có mặt trên hành tinh này”. Tại sao vậy? Đạo Phật ra đời vì mục đích giải khổ cho con người. Nếu thật sự có thế giới siêu hình, tức là các pháp trên thế gian này không phải do duyên hợp tạo thành, mà do một đấng Vạn năng sáng tạo. Vì thế mọi sự trừng phạt và khen thưởng đều do vị này.

Chúng ta hãy chịu khó đọc lại một đoạn kinh Tiểu Thừa trong tập kinh Tăng Nhất A-Hàm, tập 1 trang 455 thuộc tạng kinh Việt Nam. Các Thầy Tỳ kheo thưa hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Có sắc nào thường còn không biến đổi, tồn tại mãi ở đời, mà không di động chăng? Có thọ, tưởng, hành, thức nào hằng còn không biến đổi, tồn tại mãi ở đời mà không di động chăng?”. Phật dạy: “Này các Thầy Tỳ kheo ! Không có sắc nào hằng còn tồn tại mãi ở đời mà không biến đổi, lại không có thọ, tưởng, hành, thức nào, hằng còn mãi ở đời mà không biến đổi”. “Này các Thầy Tỳ kheo! Nếu lại có thức này (linh hồn, Phật tánh, Bản lai diện mục, Thần thức, v.v..) hằng còn mãi ở đời mà không biến đổi, thì người tu Phạm hạnh (tu theo đạo Phật giới, định, tuệ) chẳng thể phân biệt được thiện ác và chẳng thể dứt hết gốc khổ”. Lúc bấy giờ, đức Phật, lấy một ít đất để trên đầu móng tay và bảo: “Nếu chỉ còn một chút xíu đất trên móng tay ta, không thay đổi, thường hằng, thì người tu theo Phạm hạnh (theo Phật giáo) chẳng thể chấm dứt các khổ. Vì thế, này các Thầy Tỳ kheo! Vì không còn chút xíu thức nào hằng còn mãi ở đời, nên mới thực hiện được phạm hạnh, dứt được mé khổ.”

Bài kinh trên đã xác định rõ ràng, nếu còn có một chút xíu thế giới siêu hình (linh hồn, thần thức) thì đạo Phật không có mặt trên hành tinh này, vì không thể tu tập, làm chủ sanh, già, bệnh, chết được; mà đã tu tập không làm chủ được sanh, già, bệnh, chết thì mục đích của đạo Phật ra đời để làm gì? Hay ra đời để bắt chước lục sư ngoại đạo, xây dựng thế giới siêu hình có Thần Thức, Linh Hồn, Tiểu Ngã, Đại Ngã, Chơn Như, Phật Tánh, Bản Thể Vạn Hữu, Bản Lai Diện Mục, v.v…

Thời đại đức Phật ra đời là thời đại dân trí còn thấp kém, con người đang sống trong mê lầm lạc hậu, mê tín, nên tất cả các tôn giáo khác đều theo sự lạc hậu, mê tín đó đang ở trong bối cảnh xã hội như vậy. Các tôn giáo không thể nào thoát ra khỏi thế giới siêu hình tưởng đó. Vì các tôn giáo cũng là những con người đang nằm trong thế giới tưởng uẩn của họ, cho nên không còn có cách nào khác hơn được, họ phải xây dựng thế giới siêu hình vĩ đại hơn thế giới của con người đang có, để dễ lừa đảo hơn. Thế nên, pháp môn tu tập của các giáo phái cũng không thoát ra khỏi tưởng tuệ, thường sống trong tưởng tri. Cho nên, họ đều xây dựng thế giới siêu hình có thần linh, có linh hồn. Có thần linh, có linh hồn thì phải có sự cứu rỗi, có ban phước lành. Có sự cứu rỗi, có ban phước lành thì phải có gia hộ, có trừng phạt, có giáng họa. Có gia hộ, có trừng phạt, có giáng họa, thì phải có thưởng, có khen, v.v…

Vì thông suốt thời gian và không gian của vũ trụ, nên đức Phật biết rất rõ các cõi đều do tưởng tri của con người sản xuất ra, nên mạnh tay đập phá thế giới hữu hình cũng như thế giới siêu hình, bằng một sự biết rất rõ nó không có thật thường làm đau khổ cho loài người. 

Cho nên, đức Phật, qua những bài pháp chỉ thẳng rất thực tế và cụ thể, mà hiện giờ trong thời đại khoa học của chúng ta cũng phải chấp nhận những bài pháp đó thật là logic và khoa học.

Ngài chấp nhận cõi Trời, là chấp nhận việc làm thiện của con người. Những hành động thiện sẽ mang đến cho họ một cuộc sống an vui, thanh thản và hạnh phúc. Đó là cảnh giới “Thiên Đàng”. Ngài chấp nhận ngay tại cuộc sống ở thế gian này là cõi “Trời” chứ không ở cõi nào khác cả.


318-SỰ NGUY HIỂM CỦA THẾ GIỚI TƯỞNG .

 

318-SỰ NGUY HIỂM CỦA THẾ GIỚI TƯỞNG . 

thầy Thích Thông Lạc

 (Nguồn:http://www.nguyenthuychonnhu.net/index.php/bdt/144-thhlht

Một trích đoạn đại ý từ băng giảng của thầy Thông Lạc nói về thế giới tưởng, sự nguy hiểm của thế giới tưởng – mà các cảnh giới xuất hồn, siêu hình phải chăng là ảo giác, cảnh giới của thế giới tưởng?

 …Thế mà lâu là do bị tưởng con, cái tâm của thầy nó an, nó an là nó bị tưởng. Thậm chí như thầy ngồi đây nó thể hiện thần thông đủ cách, thần thông tưởng con, nó làm cản trở thầy rất nhiều trên con đường tu bởi vì thầy tu theo con đường Đại Thừa nó lọt vào thế giới tưởng cho nên thầy mới biết mặt nó đủ mọi tưởng của nó chứ còn cỡ thầy không tu thì thầy không biết nó đâu.

Cho nên ở đây bây giờ mấy con ló cái mặt tưởng nào ra thầy biết hết, nói ra thầy biết mặt nó hết, cho nên mấy con không có thể nào lừa đảo thầy qua được cái tưởng của mấy con. Cho nên thầy biết mặt nó hết, do đó thầy điểm mặt thầy chỉ cách thức phá sạch không để cho nó phá.

Cho nên từ cái thinh tưởng đến cái sắc tưởng, đến cái xúc lạc hỷ tưởng, tất cả cái này đều là cám dỗ. 

Rồi nó đánh cái tưởng, cái tưởng lạc rồi nó đánh cái tưởng khổ. Đó cái tưởng khổ là thọ ấm ma đó, cái thọ hành nó đánh cái tưởng khổ, rồi nó đánh cái tưởng vô ký, rồi nó đánh cái tưởng ngoan không, rồi nó đánh cái tưởng hôn trầm thùy miên con. Đầu tiên mấy con tu là cái hôn trầm thùy miên thực sự của mấy con. Sau khi mấy con tu khá rồi thì cái tưởng hôn trầm thùy miên nó đánh, nó đánh mạnh hơn, nó đánh vi tế hơn, nó kinh lắm chớ không phải con người mình luôn bị hôn trầm thùy miên đâu mà nó bị cái tưởng hôn trầm thùy miên. Nó đang ngồi tỉnh bơ mà nó đánh mình gục liền tức khắc. Ý thức mình rất tỉnh nhưng vừa lọt trong tưởng nó đánh gục mình tức khắc, nó nhanh chóng lắm.

Cho nên tất cả các cái này là cái khó khăn chứ không phải dễ. Vì vậy mà Đức Phật đã nói: Đạo cảm ứng giao nan tư nghì, cảm ứng giao nan được cái sự khó khăn của một người đệ tử của mình. Nó khó lắm chứ không phải dễ. Bởi vì kèm bên mình là có một cái thế giới tưởng, ý thức của chúng ta vừa muốn ngưng nó được thì cái tưởng nó đã làm cản trở chúng ta.

Cho nên hầu hết mà người ta tu không đạt được là tại vì người ta rơi vào thế giới tưởng, người ta không đạt được sự làm chủ sinh tử. Rớt vào trong đó người ta cứ ngỡ tưởng mình làm chủ, nhưng mà đến cuối cùng mà cái sự sống chết của mình, cái giờ phút cuối cùng thì không làm chủ được. 

Ông nào cũng ngẩn ngơ hết, hồi đó thì tưởng đâu là mình làm chủ được, không ngờ đến cuối cùng thì không làm chủ được. 

Tại sao mấy người đó, thầy nói, họ tu mà họ không thử. Còn thầy thì thầy thử thầy biết làm chủ không có được thầy biết rằng không có được, cái này không có làm được. Cho nên thầy thử phải làm được mới tin được.

Cho nên ở đây khi mà các con tu xong, cái tâm các con định tĩnh xong rồi, nó có đủ bảy giác chi rồi thì các con cứ thử, thử xem có làm được không? đặng cho mình ôm pháp mình tu nữa, có như vậy mình mới tiến bộ. …

 Nghe băng giảng: Nhấn vào đây để nghe

(Nguồn: https://ia802501.us.archive.org/12/items/chonlac_mp3_16/04._Ben_Thay_chung_con_hoc_dao_2.mp3)


317-HIỂU TƯỞNG UẨN, BIẾT RÕ LINH HỒN LÀ KHÔNG CÓ

 

317-HIỂU TƯỞNG UẨN, BIẾT RÕ LINH HỒN LÀ KHÔNG CÓ

"Linh hồn" và "thế giới siên hình" là những đề tài được bàn luận nhiều trên các diễn đàn tôn giáo. Trưởng lão Thích Thông Lạc cũng đã viết một cuốn sách tuyệt vời về đề tài này với nhan đề " Linh Hồn Không Có", và cũng từ cuốn sách này, gây không ít thắc mắc với nhiều bạn đọc vốn chịu ảnh hưởng tư tưởng Phát triển các tông phái...

 Tuy nhiên, bên cạnh những thắc mắc thiện chí muốn tìm hiểu thực sự, còn có những thắc mắc rất thiếu thiện chí, hỏi để "bắt bí" mà không cần câu trả lời. Đó là trường hợp của bạn huy cường trên DĐ/TVHS.

 Trong phạm vi hiểu biết của mình, đạo hữu Minh Huy và Phương Minh đã có câu trả lời, nhưng không phải trả lời thay Trưởng Lão Thích Thông Lạc, càng không phải trả lời cho những người thiếu tinh thần phục thiện như bạn huy cường. Thật sự họ chỉ muốn nhân câu hỏi này đánh động hàng Phật tử đang bị lạc dẫn bởi những tông phái Phát triển, thoát khỏi sự mê tín trong thế giới siêu hình tưởng, trở về với lời dạy Nguyên thủy của đức Bổn sư...

 huy cường (08/01/2011)

Sao đọc trong sách "Linh hồn không có", mình thấy có điểm vô lý như sau: thầy Lạc nói là cơ thể chúng ta gồm 5 uẩn, khi chết thì 5 uẩn này sẽ tan rã không còn chi, vậy mà lúc giải thích hiện tượng nữ thánh Bernadette, thầy Lạc lại nói là do tưởng uẩn của cô hoạt động nên thân xác không tan rã. Mình thấy rõ ràng là vô lý vì thầy nói chết là ngũ uẩn tan rã thì tưởng uẩn cũng phải tan rã theo chứ làm gì còn hoạt động làm thân xác không tan rã. Các bạn theo thầy Thông Lạc vui lòng giải thích giúp mình với?

 Minh Huy (08/02/2011)

Thân gửi bạn huy cường.

Tôi không phải là đệ tử của thầy Thông Lạc, cũng chẳng phải là người “theo thầy Thông Lạc”. Nhưng tôi thấy chuyện này cũng dễ hiểu thôi! Với điều kiện bạn tạm thời dẹp bỏ thành kiến và chấp nhận những khái niệm mới mà bạn chưa từng thấy trong các sách vở Đại Thừa. Ví dụ: sắc thức, tưởng thức, tưởng lực v.v…

 Đại khái là khi con người chết, năm uẩn dĩ nhiên phải hoại diệt theo, nhưng tưởng uẩn có thể là uẩn bị hoại diệt sau cùng... Trong tưởng uẩn nó có một cái “biết” mà thầy Thông Lạc gọi là “tưởng thức”. Tưởng thức này có thể chuyển hóa thành “tưởng lực” khi nó tương ưng với một loại nhân quả nào đó… Tưởng lực này mạnh hay yếu tùy vào nhân qủa của mỗi người… Khi con người chết, nếu tưởng lực yếu, thì tưởng uẩn sẽ bị hoại diệt cùng lúc với bốn uẩn kia… Ngược lại, nếu tưởng lực mạnh, nó sẽ duy trì, tồn tại một thời gian trước khi hoàn toàn bị hoại diệt… Khi nó chưa hoàn toàn bị hoại diệt, nó sẽ tương ưng với chính nhân quả của nó trong thời điểm đó… Vì thế mới có hiện tượng báo tin cho người thân ở xa vào đúng thời điểm mà người đó chết, hay có những người chết oan ở đâu đó về báo tin cho người thân đến tìm xác họ một cách chính xác… Chính điều này khiến người ta lầm tưởng có linh hồn… cũng có thể hiểu nó tương tự như trạng thái “trung ấm”, hoặc trạng thái “bardo” của Phật giáo Tây Tạng. Nhưng chỉ là tương tự thôi chứ không chính xác, vì những trạng thái này có được cũng do tưởng lực mà có…

 Nhưng điều cần chú ý ở đây là cách giảng về năm uẩn của thầy Thông Lạc có khác với sách vở truyền thống của Phật giáo Đại Thừa ở chỗ thầy Thông Lạc nhấn mạnh đến 3 loại thức ở mỗi con người. Đó là: “ý thức” thuộc sắc uẩn, “tưởng thức” thuộc tưởng uẩn và “thức thức” hay còn gọi là “tâm thức” thuộc thức uẩn… Theo thầy Thông Lạc, vì sắc uẩn không đơn thuần chỉ có tứ đại, mà trên tứ đại đó còn có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý… do đó ý thức thuộc sắc uẩn còn được gọi là “sắc thức” Điều này xác định tứ đại trên sắc uẩn của con người khác với trên các loài động vật khác, hay chính xác hơn, các loài động vật vẫn có “sắc thức”, nhưng rất yếu, gần như bị tê liệt hoàn toàn, do dó chỉ có con người mới biết dùng ý thức của sắc thức để tu. Đây cũng chính là ý nghĩa của câu “thân người khó được…” .

 Hành giả chi nên lấy ý thức mà tu. Tuyệt đối không tu bằng tưởng thức, còn thức thức hay tâm thức chỉ được khai mở dần trong bốn thiền… Tưởng thức đặc biệt nguy hiểm đối với người đang tu vì nó có thể dẫn hành giả đến các cõi thiền tưởng… Chính cái “tưởng thức” này biến thế giới hiện thực thành thế giới siêu hình. Đây cũng là chỗ khai sinh ra các tôn giáo. Đối với Phật giáo Đại thừa thì đây cũng chính là chỗ khai sinh ra các tông phái… Bạn có thể chấp nhận hay không chấp nhận, nhưng xin miễn tranh luận vì tôi cũng là người đang tìm hiểu…

 Trường hợp cô Bernadette do lòng tin tưởng cao độ vào Thiên Chúa nên Tưởng uẩn của cô hoạt động. Nhờ Tưởng Uẩn hoạt động nên thân xác cô không hư hoại sau khi chết.

 Phương Minh (08/03/2011)

Kính thưa quý vị đọc giả,

Thưa bạn Huy Cường,

Câu hỏi (ngày 01/8/11) của bạn có tính tò mò, tọc mạch không hướng đến lợi ích cho sự tu tập nên chúng tôi không trả lời, có lẽ vì thương bạn quá ngây ngô không khác gì bạn Ng.Hải bao nhiêu nên đạo hữu Minh Huy mới trả lời thêm cho bạn rõ.

 Thực sự thì câu chuyện về cô Bernadette, Trưởng Lão đã giảng đáp quá rõ ràng mà người thiểu trí nhất cũng hiểu được bằng ý thức của minh. Ở đây PM hiểu, bạn muốn tò mò đận chuyện để được biết thêm những điều không thể thấy biết được của người phàm phu, dẫu rằng Trưởng Lão có nói thêm nữa thì cũng chẳng khác nào đàn gảy tai trâu mà thôi.

 Chuyện thấy biết và giảng thuyết về thế giới siêu hình nằm ngoài sự hiểu biết của phàm phu, chỉ những bậc có Tam Minh thì nó quá đơn giản như xem chỉ trong lòng bàn tay. Tuy vậy Trưởng Lão chỉ giảng vừa đủ để mọi người hiểu được. Vì sao vậy?

 Bởi vì, như đức Phật đã dạy: “Nếu ta nói một điều gì mà người nghe không thấy, không biết được là có nói láo trong ta…”. Từ đây bạn cũng có thể suy ra, hơn năm trăm câu chuyện về tiền thân đức Phật (trong Tiểu bộ kinh – tạng Nikaya) là những câu chuyện không có cơ sở để gán cho Phật thuyết, đó chỉ là những câu chuyện hý luận để những người rảnh rỗi và nhụt chí tu hành tiêu phí thời gian, hoặc để cho các nhà học giả tìm hiểu, nghiên cứu thêm về những vấn đề xã hội của lịch sử Ấn Độ mà thôi.

 Chuyện cô Bernadette, Trưởng Lão có đủ năng lực cứ ngồi ngay tại Trảng Bàng vẫn làm cho thi thể cô tan rã được, nó quá đơn giản đối với năng lực của Ngài. Nhưng nếu làm như vậy thì có mang lại lợi ích gì cho ai?

 Để minh chứng, có người hỏi: “Có cách nào làm cho thân xác cô Bernadette đang tươi như vậy tan rã không? Hay là cứ để theo thời gian sẽ tan rã?”

 Trưởng Lão trả lời: "Chỉ cần một người nhập vào Thức Vô Biên Xứ Tưởng thì sẽ bắt gặp Tưởng thức của cô Bernadette và giúp Tưởng thức cô ngưng hoạt động thì thân cô tan rã tức khắc. Còn nếu cứ để Tưởng thức của cô Bernadette hoạt động thì thân xác cô không bao giờ tan rã". 


316-MẠC NA THỨC VÀ A LẠI DA THỨC

 

316-MẠC NA THỨC VÀ A LẠI DA THỨC

Hỏi: Thưa Thầy! Theo Đại thừa, Mạc Na thức như người giữ kho, A Lại Da thức ví như cái kho chứa nhóm tất cả chủng tử thiện ác.

Khi người chết, thân, thọ, tâm, pháp đều hoại diệt, chỉ còn Mạc Na thức và A Lại Da thức đi đầu thai. Có phải vậy không thưa Thầy?

Đáp: Đó là những danh từ trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh Đại thừa, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da thức và Mạc Na thức), được xem là người giữ kho và cái kho tích trữ tạo thành nghiệp lực.

Theo kinh Nguyên Thủy, nghiệp lực thì không có thức, tức là không có cái biết. Do sự vô minh tương ưng với nghiệp mới tái sanh luân hồi, chứ không có cái thức đi tái sanh.

Các nhà Duy thức học chỉ tưởng ra mà thôi, nên tưởng ra người giữ kho và cái kho đi tái sanh (Mạc Na thức và A Lại Da thức đi tái sanh).

Sự thật, trong kinh Nguyên Thủy dạy không có thức nào đi tái sanh luân hồi, chỉ có nghiệp thiện, ác đi tái sanh mà thôi. Nghiệp thiện ác tức là nhân quả thiện ác.

Kinh sách phát triển lầm lạc vì bị thế tục hóa, nên biến linh hồn mê tín trong dân gian thành thần thức, và khéo lý luận đặt tên là Mạc Na thức và A Lại Da thức đi tái sanh luân hồi để xây dựng thế giới linh hồn người chết, để sanh ra cái nghề tụng niệm, nếu không có linh hồn thì các thầy đều thất nghiệp.

Cho nên, Mạc Na thức và A Lại Da thức là tưởng tri của các sư Phật giáo phát triển tưởng ra, để chia  chẻ  tâm  thức  con  người  ra  nhiều mảnh. Đó là ý đồ làm lệch hướng của Phật giáo chân chánh, để biến Phật giáo thành một tôn giáo mê tín.


227-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ.

  227-BAN KINH SÁCH TU VIỆN CHƠN NHƯ. Kinh sách của Tu viện Chơn Như chỉ kính biếu không bán . Phật tử cần kinh sách của Tu viện Chơn Như ...